
Hình ảnh trực quan hóa cho thấy dự đoán (forecasts) của 1128 người gồm 812 chuyên gia AI độc lập, ước tính tổng hợp của 315 nhà dự báo từ nền tảng Metaculus và kết quả nghiên cứu chi tiết của Ajeya Cotra.
Có hai điểm chính rút ra từ những dự đoán về biểu đồ tiến triển AI trên:
Không chỉ có sự bất đồng giữa các chuyên gia; các chuyên gia cá nhân cũng nhấn mạnh sự không chắc chắn lớn xung quanh ước tính của riêng họ. Như mọi khi, khi sự không chắc chắn cao, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nó có hai mặt. Có thể sẽ mất rất lâu trước khi chúng ta thấy AI ở cấp độ con người, nhưng điều đó cũng có nghĩa là chúng ta có thể có rất ít thời gian để chuẩn bị.
Những thảo luận công cộng và quá trình ra quyết định tại các viện và cơ quan lớn chưa theo kịp những viễn cảnh này. Trong các cuộc thảo luận về tương lai của thế giới – từ tương lai của khí hậu, kinh tế, đến các thể chế chính trị – viễn cảnh về AI chuyển đổi (transformative AI) hiếm khi là trọng tâm của cuộc trò chuyện. Thậm chí, nó thường không được đề cập đến, ngay cả trong phần chú thích.
Chúng ta dường như đang ở trong một tình huống mà hầu hết mọi người hầu như không nghĩ về tương lai của trí tuệ nhân tạo, trong khi số ít những người dành sự chú ý cho nó lại cho rằng một trong những biến đổi lớn nhất trong lịch sử nhân loại có thể sẽ xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
-

Các cuộc khảo sát khác với chuyên gia AI cũng đưa ra kết luận tương tự. Trong hình ảnh minh họa dưới đây, tôi đã thêm vào thời gian thực hiện của hai cuộc khảo sát trước đó được thực hiện vào năm 2018 và 2019. Việc xem xét các cuộc khảo sát khác nhau là rất hữu ích, vì chúng khác nhau về cách đặt câu hỏi và cách định nghĩa AI ở cấp độ con người. Bạn có thể tìm thêm thông tin chi tiết về các nghiên cứu này ở phần cuối bài viết.
Trong cả ba cuộc khảo sát, chúng ta thấy sự bất đồng lớn giữa các chuyên gia và họ cũng bày tỏ sự không chắc chắn lớn về dự báo cá nhân của họ.5
(ảnh gốc trong link)
Các cuộc khảo sát chuyên gia là một trong những nguồn thông tin cần xem xét khi chúng ta suy nghĩ về tương lai AI, nhưng chúng ta không nên quá coi trọng kết quả của những cuộc khảo sát này. Các chuyên gia trong một lĩnh vực công nghệ cụ thể không nhất thiết là chuyên gia trong việc dự đoán tương lai của lĩnh vực đó.
Các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực không có thành tích tốt trong việc dự báo về lĩnh vực của mình, như các nhà nghiên cứu Barbara Mellers, Phil Tetlock và những người khác đã chỉ ra.6 Lịch sử hàng không có một ví dụ nổi bật về sự thất bại như vậy. Wilbur Wright từng nói: "Tôi thừa nhận rằng vào năm 1901, tôi đã nói với anh trai Orville rằng con người sẽ không bay được trong 50 năm." Hai năm sau, con người không chỉ bay được mà chính hai anh em họ đã thực hiện được kỳ tích đó.7
Ngoài ra, các nghiên cứu này thường phát hiện ra các "hiệu ứng khung"( ‘framing effects’) lớn, hai câu hỏi logic tương đương có thể được trả lời hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào cách diễn đạt chính xác của câu hỏi.8
Tuy nhiên, điều tôi rút ra từ các cuộc khảo sát này là phần lớn các chuyên gia AI đều coi trọng triển vọng của công nghệ AI rất mạnh mẽ. Không phải các nhà nghiên cứu AI coi AI cực kỳ mạnh mẽ là ảo tưởng.
Đại đa số cho rằng trong những thập kỷ tới, có khả năng chúng ta sẽ chứng kiến công nghệ AI có tầm ảnh hưởng biến đổi thế giới. Mặc dù một số người nghĩ còn xa, nhưng nhiều người cho rằng chúng ta có rất ít thời gian trước khi những công nghệ này xuất hiện. Trong ba cuộc khảo sát, hơn một nửa cho rằng có 50% khả năng AI đạt trình độ con người sẽ được phát triển trước một thời điểm nào đó trong thập kỷ 2060, một thời điểm nằm trong khoảng thời gian sống của thế hệ trẻ hiện nay.
Trong hình minh hoạ lớn về dòng thời gian AI dưới đây, tôi đã bao gồm dự báo của cộng đồng dự báo Metaculus.
Các nhà dự báo trên nền tảng trực tuyến Metaculus.com không phải là chuyên gia về AI mà là những người dành năng lượng của mình để đưa ra những dự báo tốt. Nghiên cứu về dự báo đã chứng minh rằng các nhóm người có thể đưa ra xác suất chính xác đáng ngạc nhiên cho các sự kiện trong tương lai khi được cung cấp động lực phù hợp và phản hồi tốt.9 Để nhận được phản hồi này, cộng đồng trực tuyến tại Metaculus theo dõi hiệu suất dự báo của họ.
Nhóm dự báo này kỳ vọng gì về tương lai của AI?
Tại thời điểm viết bài, vào tháng 11 năm 2022, các nhà dự báo tin rằng có 50% khả năng “Trí tuệ nhân tạo tổng quát” sẽ được “phát minh, thử nghiệm và công bố rộng rãi” vào năm 2040, tức là chưa đầy 20 năm nữa.
Trên trang của họ về câu hỏi cụ thể này, bạn có thể tìm thấy định nghĩa chính xác về hệ thống AI được đề cập, lịch trình dự báo của họ đã thay đổi như thế nào và lập luận của từng nhà dự báo về cách họ đưa ra dự đoán của mình.10
Lịch trình của cộng đồng Metaculus gần đây đã trở nên ngắn hơn nhiều. Lịch trình dự kiến đã rút ngắn khoảng một thập kỷ vào mùa xuân năm 2022, khi một số đột phá ấn tượng trong lĩnh vực AI diễn ra nhanh hơn nhiều so với dự đoán của nhiều người.11
Dự báo cuối cùng được trình bày xuất phát từ nghiên cứu của Ajeya Cotra, hiện đang làm việc cho tổ chức phi lợi nhuận Open Philanthropy.12 Năm 2020, cô đã công bố một nghiên cứu chi tiết và có ảnh hưởng lớn, đặt ra câu hỏi: khi nào thế giới sẽ chứng kiến sự xuất hiện của AI biến đổi. Dòng thời gian của cô không dựa trên các cuộc khảo sát, mà dựa trên nghiên cứu về xu hướng dài hạn trong khả năng điện toán được sử dụng để huấn luyện các hệ thống AI. Tôi trình bày và thảo luận về các xu hướng dài hạn trong khả năng điện toán đào tạo trong bài viết kèm theo này.
Cotra ước tính rằng có 50% khả năng một hệ thống AI biến đổi sẽ trở nên khả thi và giá cả phải chăng vào năm 2050. Đây là ước tính chính của cô trong “kịch bản trung bình”. Cotra nhấn mạnh rằng có nhiều bất ổn đáng kể xung quanh kịch bản trung bình này, và cô cũng đã khám phá hai kịch bản khác, cực đoan hơn. Thời gian cho hai kịch bản này – kịch bản “khả thi nhất” và kịch bản “thận trọng nhất” – cũng được thể hiện trong hình ảnh trực quan. Khoảng thời gian từ 2040 đến 2090 trong dự báo “khả thi” của Cotra nhấn mạnh rằng cô tin rằng sự không chắc chắn là rất lớn.
Hình ảnh trực quan cũng cho thấy Cotra đã cập nhật dự báo của mình hai năm sau khi công bố lần đầu. Năm 2022, Cotra đã công bố một bản cập nhật trong đó cô rút ngắn thời gian trung bình của mình xuống 10 năm.13
Điều quan trọng cần lưu ý là các định nghĩa về hệ thống AI trong các nghiên cứu này rất khác nhau. Ví dụ, hệ thống mà Cotra đề cập sẽ có tầm ảnh hưởng mang tính biến đổi lớn hơn nhiều so với hệ thống mà các nhà dự báo Metaculus tập trung vào. Chi tiết hơn có thể tìm thấy trong phụ lục và trong các nghiên cứu tương ứng.
Hình ảnh trực quan hóa cho thấy dự báo của 1128 người – 812 chuyên gia AI riêng lẻ, ước tính tổng hợp của 315 nhà dự báo từ nền tảng Metaculus và kết quả nghiên cứu chi tiết của Ajeya Cotra.
Các cuộc thảo luận công khai và quá trình ra quyết định tại các tổ chức lớn chưa bắt kịp với những triển vọng này. Trong các cuộc thảo luận về tương lai của thế giới – từ tương lai của khí hậu, tương lai của nền kinh tế, đến tương lai của các thể chế chính trị – triển vọng của AI biến đổi hiếm khi là chủ đề trung tâm của cuộc trò chuyện. Thường thì nó không được đề cập đến, thậm chí không có trong phần chú thích.
Chúng ta dường như đang ở trong một tình huống mà hầu hết mọi người hầu như không nghĩ về tương lai của trí tuệ nhân tạo, trong khi một số ít người dành sự chú ý cho nó lại cho rằng một trong những cuộc chuyển đổi lớn nhất trong lịch sử nhân loại có thể sẽ xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
Lời cảm ơn: Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng sự Natasha Ahuja, Daniel Bachler, Bastian Herre, Edouard Mathieu, Esteban Ortiz-Ospina và Hannah Ritchie vì những góp ý quý báu cho bản thảo của bài viết này.
Và tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp Charlie Giattino đã tính toán các mốc thời gian cho từng chuyên gia dựa trên dữ liệu từ ba nghiên cứu khảo sát và hỗ trợ công việc cho bài viết này. Charlie cũng là một trong các tác giả của nghiên cứu được trích dẫn của Zhang et al. về mốc thời gian của các chuyên gia trí tuệ nhân tạo.
Các khảo sát khác nhau về cách đặt câu hỏi và cách định nghĩa hệ thống AI được đề cập. Trong các phần sau, chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết về vấn đề này cho tất cả các nghiên cứu được trích dẫn.
Những người tham gia khảo sát được cung cấp văn bản sau đây về định nghĩa trí tuệ nhân tạo đẳng cấp (high-level machine intelligence):
“Các câu hỏi sau đây hỏi về ‘trí tuệ nhân tạo đẳng cấp’ (HLMI). Giả sử chúng ta có ‘trí tuệ nhân tạo đẳng cấp’ khi máy móc không cần trợ giúp có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ tốt hơn và rẻ hơn con người. Bỏ qua các khía cạnh của nhiệm vụ mà con người có lợi thế bẩm sinh, ví dụ như được chấp nhận làm thành viên ban giám khảo. Hãy nghĩ về tính khả thi, không phải tính áp dụng. Đối với mục đích của câu hỏi này, giả sử rằng hoạt động khoa học của con người tiếp tục diễn ra mà không có sự gián đoạn tiêu cực lớn.”
Mỗi người trả lời được chỉ định ngẫu nhiên để đưa ra dự báo của họ theo một trong hai khung khác nhau: “xác suất cố định” và “năm cố định”.
Những người trong khung xác suất cố định được hỏi: "Bạn dự đoán bao nhiêu năm nữa: Xác suất HLMI tồn tại là 10%? Xác suất HLMI tồn tại là 50%? Xác suất HLMI tồn tại là 90%?" Họ trả lời bằng cách cho biết số năm kể từ ngày họ tham gia khảo sát.
Những người trong khung "năm cố định" được hỏi: "Xác suất HLMI tồn tại là bao nhiêu: Trong 10 năm? Trong 20 năm? Trong 40 năm?" Họ trả lời bằng cách đưa ra xác suất xảy ra.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khung câu hỏi ảnh hưởng đến thời gian dự đoán của người trả lời, với khung "năm cố định" dẫn đến thời gian dự đoán dài hơn (tức là HLMI xảy ra xa hơn trong tương lai). Ví dụ, trong phiên bản trước của cuộc khảo sát này (đặt câu hỏi tương tự), những người được đặt trong khung thời gian cố định đã đưa ra xác suất 50% cho HLMI vào năm 2068; những người được đặt trong khung xác suất cố định đã đưa ra năm 2054.14 Kết quả khung thời gian từ phiên bản 2022 của cuộc khảo sát chưa được công bố.
Ngoài hiệu ứng khung thời gian, còn có một hiệu ứng lớn hơn do cách định nghĩa khái niệm HLMI. Chúng ta có thể thấy điều này trong kết quả của phiên bản trước của cuộc khảo sát (kết quả của cuộc khảo sát năm 2022 chưa được công bố). Đối với những người được cung cấp định nghĩa HLMI ở trên, dự báo trung bình cho khả năng 50% xảy ra HLMI là năm 2061. Một nhóm nhỏ người được hỏi được hỏi một câu hỏi khác, tương tự về mặt logic, về tự động hóa hoàn toàn lao động; dự báo trung bình của họ cho khả năng 50% là năm 2138, muộn hơn 77 năm so với nhóm đầu tiên.
Nhóm tự động hóa hoàn toàn lao động được hỏi: “Giả sử một nghề trở nên hoàn toàn có thể tự động hóa khi máy móc không cần sự trợ giúp có thể thực hiện công việc đó tốt hơn và rẻ hơn con người. Bỏ qua các khía cạnh của nghề mà con người có lợi thế bản chất, ví dụ như được chấp nhận làm thành viên bồi thẩm đoàn. Hãy nghĩ về tính khả thi, không phải tính áp dụng. Giả sử chúng ta đã đạt đến 'tự động hóa hoàn toàn lao động' khi tất cả các nghề nghiệp đều có thể tự động hóa hoàn toàn. Nghĩa là, đối với bất kỳ nghề nghiệp nào, máy móc có thể được chế tạo để thực hiện công việc tốt hơn và rẻ hơn so với con người." Câu hỏi này được đặt ra trong cả hai khung xác suất cố định và năm cố định.
Những người tham gia khảo sát được cung cấp định nghĩa sau về trí tuệ máy móc ở cấp độ con người: “Trí tuệ máy móc ở cấp độ con người (HLMI) đạt được khi máy móc có thể thực hiện gần như tất cả các nhiệm vụ (>90% tổng số nhiệm vụ) có liên quan đến kinh tế tốt hơn mức trung bình của con người được trả tiền để thực hiện nhiệm vụ đó vào năm 2019. Bạn nên bỏ qua các nhiệm vụ bị hạn chế về mặt pháp lý hoặc văn hóa đối với con người, chẳng hạn như làm bồi thẩm viên.”
Các nhiệm vụ “có liên quan đến kinh tế” được định nghĩa là những nhiệm vụ có trong cơ sở dữ liệu Mạng Thông tin Nghề nghiệp (O*NET). O*NET là một tập hợp dữ liệu được sử dụng rộng rãi về các nhiệm vụ được thực hiện trong nhiều ngành nghề khác nhau.
Giống như trong Grace et al 2022, mỗi người tham gia khảo sát được chỉ định ngẫu nhiên để đưa ra dự báo của họ theo một trong hai khung thời gian khác nhau: “xác suất cố định” và “năm cố định”. Như đã phát hiện trước đó, khung thời gian cố định dẫn đến thời gian dự đoán trung bình dài hơn: năm 2070 cho xác suất 50% đạt được HLMI, so với năm 2050 trong khung xác suất cố định.
Người tham gia khảo sát được hỏi câu hỏi sau: “Các câu hỏi này sẽ hỏi ý kiến của bạn về tiến bộ của AI trong tương lai liên quan đến các công việc của con người. Chúng tôi định nghĩa công việc của con người là tất cả các công việc độc đáo mà con người hiện đang được trả tiền để làm. Chúng tôi coi công việc của con người khác với việc làm ở chỗ một thuật toán có thể thay thế con người trong một phần công việc mà một công việc yêu cầu, trong khi không thể thay thế con người cho tất cả các yêu cầu của công việc. Ví dụ, một hệ thống AI có thể không thay thế hoàn toàn một luật sư, nhưng có thể hoàn thành 50% công việc mà một luật sư thường thực hiện. Theo bạn, trong bao nhiêu năm nữa, các hệ thống AI sẽ có thể hoàn thành 99% công việc của con người ở mức độ tương đương hoặc cao hơn mức độ của một con người bình thường? Hãy nghĩ về tính khả thi.”
Chúng tôi trình bày kết quả sử dụng định nghĩa AI này trong biểu đồ, vì chúng tôi đánh giá định nghĩa này là tương đương nhất với các nghiên cứu khác trong biểu đồ.
Ngoài định nghĩa này, những người tham gia khảo sát còn được hỏi về các hệ thống AI có thể hoàn thành 50% và 90% công việc của con người, cũng như “các hệ thống AI có năng lực rộng” có thể hoàn thành 90% và 99% công việc của con người.
Tất cả những người tham gia khảo sát này đều nhận được một khung xác suất cố định.
Mục tiêu chung của Cotra là ước tính thời điểm chúng ta có thể mong đợi “trí tuệ nhân tạo mang tính chuyển đổi” (TAI), được định nghĩa là “phần mềm... có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến quỹ đạo của thế giới ít nhất là bằng Cách mạng Công nghiệp”.
Cotra tập trung vào “một cách tương đối cụ thể và dễ hình dung mà TAI có thể thể hiện: như một chương trình máy tính duy nhất thực hiện đủ đa dạng các công việc trí tuệ ở mức hiệu suất cao đến mức nó có thể một mình thúc đẩy một cuộc chuyển đổi tương tự như Cách mạng Công nghiệp”.
Một ví dụ trực quan về chương trình như vậy là "chuyên gia ảo", "một mô hình có thể thực hiện gần như tất cả mọi việc có giá trị kinh tế mà một con người thông minh và có trình độ học vấn có thể làm từ xa bằng máy tính kết nối internet với tốc độ nhanh gấp trăm lần, với chi phí tương đương hoặc thấp hơn chi phí thuê một con người như vậy".
Khi nào chúng ta có thể mong đợi sự xuất hiện của một chuyên gia ảo?
Để trả lời câu hỏi này, Cotra trước tiên ước tính lượng tính toán cần thiết để đào tạo một hệ thống như vậy bằng cách sử dụng các kiến trúc và thuật toán học máy có sẵn cho các nhà nghiên cứu vào năm 2020. Sau đó, cô ước tính thời điểm lượng tính toán đó sẽ có sẵn với chi phí đủ thấp dựa trên việc ngoại suy các xu hướng trong quá khứ.
Ước tính về khả năng điện toán để đào tạo dựa trên ước tính về lượng tính toán được thực hiện bởi não bộ con người mỗi giây, kết hợp với các giả thuyết khác nhau về lượng đào tạo cần thiết để đạt được mức năng lực đủ cao.
Ví dụ, giả thuyết “điểm neo thời gian” ước tính tổng lượng tính toán được thực hiện bởi não bộ con người cho đến khoảng 32 tuổi.
Mỗi khía cạnh của các ước tính này đều có mức độ không chắc chắn rất cao. Cotra viết: “Câu hỏi liệu có khái niệm hợp lý về ‘khả năng điện toán của não bộ’ có thể đo lường bằng FLOP/s hay không, và nếu có, phạm vi ước tính số liệu hợp lý cho FLOP/s của não bộ là bao nhiêu, là một câu hỏi khó về mặt khái niệm và mơ hồ về mặt thực nghiệm.”
Đối với bất kỳ ai quan tâm đến câu hỏi về AI trong tương lai, nghiên cứu của Cotra rất đáng để đọc chi tiết. Cô ấy đưa ra những lý do tốt và minh bạch cho các ước tính của mình và truyền đạt lý luận của mình một cách rất chi tiết.
Nghiên cứu của cô ấy đã được công bố ở nhiều nơi, bao gồm AI Alignment Forum: Ajeya Cotra (2020) – Bản thảo báo cáo về thời gian biểu AI.
Theo kiến thức của tôi, báo cáo này luôn được giữ ở dạng “bản thảo” và được đăng tải tại đây trên Google Docs (điều này không hiếm trong lĩnh vực nghiên cứu AI, nơi các bài viết thường được công bố theo cách không chuẩn mực). Năm 2022, Ajeya Cotra đã công bố một Bản cập nhật hai năm về thời gian biểu AI cá nhân của tôi.
Một loại dự báo rất khác cũng có liên quan ở đây là công trình của David Roodman. Trong bài viết Modeling the Human Trajectory (Mô hình hóa quỹ đạo của con người), ông nghiên cứu lịch sử sản lượng kinh tế toàn cầu để suy nghĩ về tương lai. Ông đặt câu hỏi liệu có khả thi để thấy sự tăng trưởng kinh tế có thể được coi là "chuyển đổi" – tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế thế giới cao hơn 30% – trong thế kỷ này hay không. Một trong những kết luận của ông là "nếu các mô hình lịch sử dài hạn tiếp tục, một loại bùng nổ kinh tế nào đó sẽ lại xảy ra, và kênh khả thi nhất là AI."
Một loại dự báo rất khác là Báo cáo về các giả định bán thông tin của Tom Davidson được xuất bản vào năm 2021.
Nếu bạn quan tâm đến việc tìm hiểu cách làm nhiều điều tốt hơn, đây là một số bước tiếp theo bạn có thể thực hiện.
Thiện nguyện Hiệu quả là nỗ lực tìm kiếm những phương pháp giúp đỡ tốt nhất và áp dụng chúng vào thực tế.
Về cơ bản, Thiện nguyện Hiệu quả gồm hai phương diện: một là triết lý hướng đến việc tìm cách giúp đỡ hiệu quả nhất, và hai là một cộng đồng hành động, nơi mọi người cùng nhau áp dụng các kết quả nghiên cứu để khiến thế giới tốt đẹp hơ
Đọc thêm: Giới thiệu về thiện nguyện hiệu quả
Thiện nguyện hiệu quả tập trung vào việc cải thiện cuộc sống (bao gồm cả con người, động vật không phải người và những người trong các thế hệ tương lai). Hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng, nếu mọi yếu tố khác như nhau, việc giảm đau khổ và tăng cường phúc lợi là điều tốt. Cũng có thể có những thứ khác có giá trị - quảng bá nghệ thuật, hoặc bảo tồn môi trường tự nhiên - nhưng thiện nguyện hiệu quả chỉ xem xét những điều này trong chừng mực chúng cải thiện cuộc sống.
Có thể khó để so sánh một cách khách quan các lợi ích khác nhau mà những người khác nhau nhận được, hoặc bởi động vật thuộc các loài khác nhau, nhưng chúng tôi cố gắng trung lập nhất có thể khi làm điều đó.
Có thể bạn đồng tình với nguyên tắc chung của Thiện nguyện Hiệu quả (đó là tìm kiếm và ưu tiên những cách làm điều tốt hiệu quả nhất), nhưng lại cho rằng một vài đề xuất thực tế của phong trào là chưa đúng đắn, vì các biện pháp can thiệp, tổ chức từ thiện hay con đường sự nghiệp được gợi ý không mang lại hiệu quả thật sự.
Tinh thần của Thiện nguyện Hiệu quả là luôn cởi mở và sẵn sàng tiếp thu những lập luận thuyết phục cùng những bằng chứng vững chắc. Nếu bạn có lý do chính đáng để phản biện lại những phương pháp đang được xem là hiệu quả, hoặc có một đề xuất mới, bạn nên thảo luận với mọi người trong cộng đồng — đó chính là cách bạn giúp những người khác hành động hiệu quả hơn.
Đọc thêm:
Khác biệt giữa "không đồng ý về những gì hiệu quả" và "không đồng ý với Thiện nguyện Hiệu quả"
The difference between disagreeing about what’s effective and disagreeing with effective altruism
Có thể là vậy.
Mỗi chúng ta đều có rất nhiều cách để tạo ra sự thay đổi (qua các lĩnh vực hoạt động, con đường sự nghiệp, hay tổ chức từ thiện khác nhau). Sẽ có những hành động mang lại hiệu quả vượt trội hơn hẳn những hành động khác. Nếu bạn chưa thực sự chủ động tìm kiếm và lựa chọn phương án có tác động lớn nhất, thì thật khó để bạn có thể tình cờ chọn được cách làm tốt nhất. Bởi vì ngay cả khi bạn dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu, việc tìm ra lựa chọn tối ưu vốn đã không hề dễ dàng.
Vì vậy, dù bạn đang làm bất cứ điều gì, bạn vẫn có thể tạo ra nhiều giá trị tốt đẹp hơn nữa nếu bạn chịu khó đánh giá, so sánh một cách kỹ lưỡng các phương án khác nhau và chọn ra phương án tốt nhất.
Đọc thêm:
- Một số vấn đề hiệu quả hơn những vấn đề khác (https://80000hours.org/articles/effective-or-not/)
Không hẳn. Nhưng nếu các yếu tố khác là như nhau, một phương pháp có xác suất thành công cao hơn thì vẫn tốt hơn.Một số người có xu hướng ưu tiên các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc, và thường hoài nghi những cách làm còn lại. Họ cho rằng nếu không có sự kiểm nghiệm khắt khe, khả năng chúng ta dự đoán một hành động có hiệu quả hay không là rất hạn chế.
Ngược lại, những người khác lại tin rằng các cơ hội tạo ra tác động lớn nhất thường nằm ở những cách tiếp cận mang tính thử nghiệm hoặc có yếu tố suy đoán nhiều hơn, ví dụ như nghiên cứu khoa học hay vận động chính sách. Chẳng hạn, các tổ chức như Forethought thực hiện những nghiên cứu có thể trở nên vô cùng giá trị nếu vài năm tới thế giới diễn biến theo một hướng nhất định. Nếu không, nghiên cứu đó có thể chẳng giúp ích được gì. Dù xác suất thành công có thể rất nhỏ, tác động tiềm tàng của nó lại lớn đến mức được xem là có "giá trị kỳ vọng" (expected value) cao.
Trên cục diện toàn xã hội, chúng ta rõ ràng cần đến sự kết hợp của cả hai hướng tiếp cận này.
Ngay cả sau khi đã đóng thuế, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy mình còn đủ khả năng và mong muốn được giúp đỡ người khác.
Chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, chính phủ không thể hoặc sẽ không giải quyết được hết mọi vấn đề. Ví dụ, thế giới không hề có một loại thuế tái phân phối toàn cầu, dù cho bất bình đẳng giữa các quốc gia còn lớn hơn nhiều so với bất bình đẳng trong lòng mỗi nước.
Hơn nữa, Thiện nguyện Hiệu quả không ra lệnh cho bạn phải làm gì. Cộng đồng này ở đây để giúp đỡ thêm, và khi bạn đọc đến đây, tức là chính bạn có thể giống chúng tôi, đã quan tâm và quyết định rằng bạn muốn cống hiến nhiều hơn.
Không. Nhưng khả năng thành công cao hơn thì tốt hơn, nếu giữ nguyên các yếu tố khác.
Một số người có sở thích mạnh mẽ đối với các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc và hoài nghi về những phương pháp không có. Điều này là do họ nghĩ rằng chúng ta có khả năng rất hạn chế trong việc dự đoán hành động nào sẽ hiệu quả và hành động nào sẽ không nếu không có thử nghiệm nghiêm ngặt.
Nhưng những người khác lại nghĩ rằng các cơ hội có tác động cao nhất sẽ liên quan đến các phương pháp thử nghiệm hoặc 'mang tính suy đoán' nhiều hơn, chẳng hạn như nghiên cứu khoa học hoặc vận động chính trị. Ví dụ, Viện Tương lai Nhân loại (Future of Humanity Institute) nghiên cứu những cách hiệu quả nhất để giảm thiểu các rủi ro thảm họa có thể ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ nhân loại. Ngay cả khi chỉ có một cơ hội thành công nhỏ, tác động tiềm năng lớn đến mức nó có giá trị kỳ vọng cao.
Trong toàn xã hội, rõ ràng cần có sự kết hợp của cả hai.
Bạn không nên quyên góp đến mức đẩy bản thân vào hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng so với mặt bằng chung của thế giới, hầu hết chúng ta đều giàu hơn mình tưởng. Bạn có thể tính thử xem mình giàu đến mức nào so với phần còn lại của thế giới tại đây.Ví dụ, nếu bạn sống ở Mỹ và có thu nhập 30.000 USD/năm sau thuế, thu nhập của bạn vẫn cao gấp 9 lần mức thu nhập trung vị toàn cầu. Kể cả khi bạn quyên góp 10%, bạn vẫn có thu nhập cao gấp 8 lần mức trung vị đó (con số này đã được điều chỉnh theo sức mua tương đương). Điều này cũng đúng với người dân ở các quốc gia phát triển khác.
Ngoài ra, có rất nhiều cách để giúp đỡ mọi người mà không cần đến tiền bạc, chẳng hạn như lựa chọn một con đường sự nghiệp có sức ảnh hưởng lớn hơn.
Tìm hiểu thêm:
Xem vị trí của bạn trên thang thu nhập toàn cầu
Cách tạo tác động bằng sự nghiệp của bạn
Nhiều người cho rằng ý tưởng cố gắng tối đa hóa những điều tốt đẹp mình làm là một điều hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người lại không chủ động lựa chọn cách làm hiệu quả nhất có thể.Họ hoặc là không dành nhiều tâm sức để giúp đỡ người khác, hoặc chỉ chọn làm những gì mình thấy hứng thú, chứ không thực sự nghiên cứu và so sánh các phương án trước khi quyết định.
Dù vậy, nếu bạn thấy “thiện nguyện phải hiệu quả” là điều hiển nhiên, thì tuyệt vời! Rất có thể bạn sẽ thích tham gia cùng cộng đồng chúng tôi.
Có rất nhiều dự án không thể kể hết!
Bạn có thể tham khảo một vài ví dụ về các hoạt động của Thiện nguyện hiệu quả tại đây:
- Các tổ chức từ thiện về sức khỏe toàn cầu hiệu quả được giới thiệu bởi GiveWell.
- Các tổ chức từ thiện vì động vật hiệu quả được giới thiệu bởi Animal Charity Evaluators.
- Nhiều tổ chức đa dạng trong các lĩnh vực khác nhau đã nhận tài trợ từ Open Philanthropy.
- Các dự án được hỗ trợ bởi Các Quỹ Thiện nguyện hiệu quả (Effective Altruism Funds) trong bốn hạng mục chính: sức khỏe và phát triển toàn cầu, phúc lợi động vật, tương lai dài hạn, và "cơ sở hạ tầng" (hỗ trợ các dự án EA tiếp cận nguồn nhân tài, vốn và tri thức).
Hãy xem trang tác động.
Cộng đồng Thiện nguyện Hiệu quả được xây dựng bởi một tập thể thân thiện, đầy nhiệt huyết, thú vị từ khắp nơi trên thế giới. Tham gia cộng đồng mang lại nhiều lợi thế hơn so với khi hoạt động đơn độc.
Hợp tác: Bạn sẽ có cơ hội hợp tác với nhiều người tài năng trong các dự án của mình.
Tạo ảnh hưởng: Những góp ý và phê bình xây dựng của bạn có thể ảnh hưởng đến cộng đồng, giúp mọi người cùng áp dụng những phương pháp mà bạn cho là hiệu quả hơn.
Cộng hưởng nguồn lực: Bạn có thể chung tay góp sức cùng mọi người để thực hiện những nghiên cứu chung, giúp tất cả chúng ta tìm ra cách tạo ra tác động lớn hơn.
Học hỏi không ngừng: Bạn sẽ học hỏi được rất nhiều qua việc trò chuyện và trao đổi với các thành viên khác.
Nguồn động lực: Thật tuyệt vời và là nguồn động lực to lớn khi có những người bạn, cộng sự cùng chung lý tưởng.
Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể giúp đỡ người khác một cách hiệu quả mà không cần tham gia cộng đồng. Nếu bạn tự mình tạo ra những đóng góp giá trị cho một vấn đề quan trọng, điều đó đã rất tuyệt vời rồi! Ngay cả khi không tham gia, bạn vẫn có thể tham khảo việc đưa ra một cam kết cá nhân (take a pledge) để giữ vững quyết tâm giúp đỡ mọi người của mình.
Khám phá thêm những gì bạn có thể làm tại trang Hành động.
Trước đây, cộng đồng đã từng mắc sai lầm khi bị đồng nhất một cách quá chặt chẽ với chiến lược “kiếm tiền để cho đi” (earning to give).Nhiều người trong cộng đồng vẫn cho rằng đây là một chiến lược phù hợp với một số người, đặc biệt là những ai có năng lực và phù hợp với công việc lương cao.
Tuy nhiên, quyên góp không phải là cách duy nhất để tạo ra tác động lớn. Nhiều người thậm chí có thể đóng góp tốt hơn bằng cách dùng chính sự nghiệp của mình để giúp đỡ người khác trực tiếp. Và cũng có nhiều người trong cộng đồng kết hợp cả hai.
Chúng tôi vẫn tin rằng việc quyên góp cho đúng tổ chức từ thiện là một trong những cách bạn có thể tạo ra sự thay đổi lớn lao. Đây cũng là một phương pháp có nền tảng bằng chứng tương đối vững chắc, vì đã có sẵn các nghiên cứu trước đó để kế thừa và phát triển.
Tìm hiểu thêm:
Làm thế nào để tạo tác động qua sự nghiệp của bạn
Làm thế nào để giúp người khác qua việc quyên góp hiệu quả
Bạn có nên "kiếm tiền để cho đi"?
Một số ví dụ về lập luận phản biện:
Lisa Herzog trên openDemocracy
Jennifer Rubenstein trên Boston Review
Sam Earle and Rupert Read trên the Ecologist
Những người theo Chủ nghĩa vị lợi thường rất ủng hộ Thiện nguyện hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều người trong cộng đồng Thiện nguyện hiệu quả lại không phải là người theo Chủ nghĩa vị lợi; họ coi trọng những giá trị tự thân khác ngoài phúc lợi, chẳng hạn như quyền con người, sự tự do, bình đẳng, hay đức hạnh cá nhân. Trên thực tế, hầu hết chúng ta đều cân nhắc đến nhiều học thuyết đạo đức khác nhau khi hành động.
Yêu cầu đạo đức duy nhất của Thiện nguyện Hiệu quả là niềm tin rằng "giúp đỡ người khác là một việc quan trọng". Phong trào này không nhất thiết cho rằng làm mọi thứ có thể để giúp người khác là một nghĩa vụ bắt buộc, và cũng không cổ xúy việc vi phạm quyền của bất kỳ ai, ngay cả khi điều đó có thể mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
Tìm hiểu thêm: Phân biệt Thiện nguyện Hiệu quả và Chủ nghĩa vị lợi (The difference between effective altruism and utilitarianism)
Ví dụ về lập luận phản biện này:
- Bài viết của Iason Gabriel trên Boston Review
- Bài viết của Catherine Tumber trên Boston Review
Một số người cho rằng Thiện nguyện hiệu quả quá chú trọng vào các giải pháp chắp vá (band-aid solutions) như can thiệp y tế trực tiếp, mà không thực sự giải quyết các nguyên nhân mang tính hệ thống sâu xa hơn của các vấn đề toàn cầu. Nhiều người tin rằng chủ nghĩa tư bản không được kiểm soát, bất bình đẳng giàu nghèo, văn hóa tiêu dùng hay bùng nổ dân số góp phần đáng kể vào sự đau khổ trên thế giới, và mọi nỗ lực cải thiện thế giới mà không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ này đều là vô nghĩa hoặc sai lầm.
Đọc Đúng là Thiện nguyện hiệu quả quan tâm đến những phương pháp đã được "chứng thực" hiệu quả, chẳng hạn như nhân rộng các biện pháp can thiệp y tế đã qua kiểm nghiệm khắt khe. Đây là một tiêu chuẩn so sánh tốt để chúng ta đánh giá các cách tiếp cận khác mang tính suy đoán hơn. Tuy nhiên, khi kỹ năng đánh giá của cộng đồng ngày càng tốt hơn, nhiều người đang dần chuyển hướng sang các phương pháp liên quan đến thay đổi mang tính hệ thống.
Điều quan trọng cần nhớ là các quan điểm vẫn còn chia rẽ sâu sắc về việc liệu các hệ thống như toàn cầu hóa thương mại hay kinh tế thị trường là lợi bất cập hại hay ngược lại. Cũng không rõ liệu chúng ta có thể thay đổi các hệ thống này một cách triệt để mà không gây ra những hậu quả không mong muốn cực kỳ tồi tệ hay không.
Sự khác biệt về quan điểm này cũng được phản ánh ngay trong chính cộng đồng. Tinh thần của Thiện nguyện Hiệu quả là luôn cởi mở — chúng ta nên tránh việc trở nên giáo điều hoặc quá gắn chặt vào một hệ tư tưởng cụ thể nào. Mọi tuyên bố về cách tạo ra sự thay đổi đều cần được đánh giá dựa trên bằng chứng sẵn có. Nếu có một phương pháp nào đó có khả năng tạo ra một sự thay đổi tích cực ròng to lớn, chúng ta nên theo đuổi nó.
Đúng là nếu tất cả mọi người đều làm chính xác một việc và không bao giờ cập nhật quan điểm trước hoàn cảnh mới, thì điều đó sẽ gây ra vấn đề. Tuy nhiên, Thiện nguyện Hiệu quả đưa ra các khuyến nghị dựa trên những cơ hội tốt nhất hiện có, sau khi đã tính đến cả những việc mà người khác đang làm.
Khi ngày càng có nhiều người nắm bắt các cơ hội mà chúng tôi khuyến nghị, những lĩnh vực đó sẽ không còn bị xem nhẹ nữa, và giá trị của việc đầu tư thêm nguồn lực vào đó sẽ giảm dần. Khi đó, chúng tôi sẽ thay đổi khuyến nghị của mình để hướng đến các cơ hội khác. Kịch bản này hiện vẫn còn rất xa.
Tìm hiểu thêm: Giá trị của sự phối hợp - The value of co-ordination
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Gary Steuer Washington Post
Không. Nhưng khả năng thành công cao hơn thì tốt hơn, nếu giữ nguyên các yếu tố khác.
Một số người có sở thích mạnh mẽ đối với các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc và hoài nghi về những phương pháp không có. Điều này là do họ nghĩ rằng chúng ta có khả năng rất hạn chế trong việc dự đoán hành động nào sẽ hiệu quả và hành động nào sẽ không nếu không có thử nghiệm nghiêm ngặt.
Nhưng những người khác lại nghĩ rằng các cơ hội có tác động cao nhất sẽ liên quan đến các phương pháp thử nghiệm hoặc 'mang tính suy đoán' nhiều hơn, chẳng hạn như nghiên cứu khoa học hoặc vận động chính trị. Ví dụ, Viện Tương lai Nhân loại (Future of Humanity Institute) nghiên cứu những cách hiệu quả nhất để giảm thiểu các rủi ro thảm họa có thể ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ nhân loại. Ngay cả khi chỉ có một cơ hội thành công nhỏ, tác động tiềm năng lớn đến mức nó có giá trị kỳ vọng cao.
Trong toàn xã hội, rõ ràng cần có sự kết hợp của cả hai.
Bản chất của Thiện nguyện hiệu quả là xuất phát từ mong muốn làm điều tốt, nhưng dùng lý trí và bằng chứng để định hướng hành động, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Đúng là quá trình này đôi khi bao gồm việc tính toán mức độ hiệu quả của các hành động. Cũng đúng là chúng ta không phải lúc nào cũng quen biết những người mình đang giúp đỡ.
Hầu hết mọi người tìm đến Thiện nguyện hiệu quả vì họ có lòng trắc ẩn sâu sắc với mọi người, và tin rằng chúng ta nên giúp đỡ người khác bất kể có quen biết họ hay không. Và để giúp đỡ một cách hiệu quả nhất, việc tính toán đôi khi lại rất quan trọng.
Tìm hiểu thêm:
- Thiện nguyện hiệu quả: Lý tính chứ không vô cảm - Why effective altruism is calculating, but not cold
- Lòng trắc ẩn: Nguồn cảm hứng giúp đỡ những người xa lạ - How compassion can inspire us to help those we’ve never met
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
- Ken Berger & Robert Penna trên Stanford Social Innovation Review
- Emma Goldberg trên the New York Times
Một người nên cống hiến đến mức nào để cải thiện thế giới là một câu hỏi khó và rất riêng tư. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến Thiện nguyện hiệu quả thường quyên góp từ 10% thu nhập trở lên, và/hoặc chuyển hướng sự nghiệp (shift your career path) để tạo ra tác động xã hội lớn hơn đáng kể.
Với một số người, điều đó nghe có vẻ là một sự hy sinh lớn lao. Nhưng với nhiều người khác, việc dành cả đời để cải thiện thế giới lại mang đến cho họ một mục tiêu rõ ràng và một lẽ sống mạnh mẽ. Thiện nguyện hiệu quả cũng mang đến một cộng đồng toàn cầu thân thiện để cùng nhau hợp tác. Việc nỗ lực giúp đỡ người khác nhiều nhất có thể đôi khi lại có mục đích, viên mãn và thậm chí vui vẻ hơn bất kỳ lựa chọn nào khác.
Bản thân sự hy sinh không có gì đáng mong muốn cả. Bạn chắc chắn không cần phải từ bỏ những điều làm mình hạnh phúc hay bỏ bê các mối quan hệ cá nhân. Mục đích ở đây là để giúp đỡ người khác, chứ không phải để tự dằn vặt bản thân.
Tìm hiểu thêm: Tầm quan trọng của việc cho đi trong hoan hỉ - The importance of giving cheerfully
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Tom Farsides trên The Psychologist
Nhiều người đồng tình rằng chúng ta nên nỗ lực tạo ra sự thay đổi, nhưng lại cho rằng ta nên dành tiền bạc và thời gian cho cộng đồng ngay tại địa phương mình.
Tất nhiên, việc giúp đỡ những người xung quanh, hay thậm chí là chính bản thân mình, không có gì là sai cả. Tuy nhiên, cơ hội để giúp đỡ những người ở nơi xa thường lớn hơn rất nhiều so với cơ hội giúp đỡ những người ở gần, đặc biệt là khi bạn đang sống ở một quốc gia phát triển.
Ví dụ, để huấn luyện một chú chó dẫn đường cho người khiếm thị ở Mỹ, chi phí vào khoảng 40.000 USD. Trong khi đó, chi phí để chữa khỏi bệnh đau mắt hột (một nguyên nhân gây mù lòa) ở một quốc gia đang phát triển chỉ từ 25 đến 50 USD. Điều này có nghĩa là, cũng với 40.000 USD đó, chúng ta có thể chữa khỏi bệnh mù lòa cho khoảng 400 đến 2000 người.
Tìm hiểu thêm: Vì sao những người ở nơi xa vẫn xứng đáng nhận được sự giúp đỡ - Why people far away still deserve our help
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: David Brooks trên the New York Times
Đúng là có rất nhiều hoạt động từ thiện không hiệu quả, và có vô số ví dụ cho thấy các chương trình viện trợ và phát triển không mang lại tác động thực sự. Nhưng điều đó không có nghĩa là không tồn tại những tổ chức từ thiện đạt được các kết quả phi thường.
Thực tế, đó chính là lý do vì sao việc tìm ra những tổ chức tốt nhất, và dùng sự phán đoán sắc bén nhất của mình để xác định lĩnh vực nào đáng để chúng ta đầu tư thời gian và tiền bạc, lại quan trọng đến thế.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều cơ hội khác để tạo ra tác động lớn, bao gồm cả khởi nghiệp kinh doanh, hoạt động chính sách, chính trị, vận động và nghiên cứu.
Tìm hiểu thêm:
Viện trợ đúng mục" tiêu: Hiệu quả không cần bàn cãi - The lack of controversy over well-targeted aid
Những lầm tưởng về hoạt động viện trợ - Myths about aid
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Angus Deaton trên Boston Review
Có một lập luận hợp lý rằng nếu các cá nhân ngừng quyên góp cho những tổ chức từ thiện hiệu quả nhất, thì các tổ chức từ thiện lớn hơn sẽ vào cuộc để lấp đầy khoảng trống đó. Nếu vậy, rốt cuộc, tác động của các khoản quyên góp cá nhân chỉ là giúp các tổ chức lớn "rảnh tay" hơn về mặt tài chính.
Đây là một câu hỏi khó trả lời. Một mặt, có khả năng nếu không có các nhà hảo tâm cá nhân, những nhà hảo tâm lớn hơn sẽ gánh vác một phần trách nhiệm. Mặt khác, nếu các tổ chức từ thiện lớn và hiệu quả được "giải phóng" khỏi các gánh nặng tài chính đó, họ có thể dùng nguồn lực để tài trợ cho những biện pháp can thiệp hiệu quả khác, kể cả những lĩnh vực quan trọng nhưng ít được các cá nhân ủng hộ.
Tuy nhiên, có những tổ chức từ thiện rất hiệu quả và hoàn toàn có khả năng tiếp nhận cũng như sử dụng hiệu quả nhiều ngân sách hơn nữa. Ví dụ, vào năm 2018, tổ chức GiveDirectly đã trao hơn 30 triệu USD cho những người nghèo nhất thế giới, và họ có thể trao nhiều hơn thế nữa nếu nhận được thêm tài trợ. Việc quyên góp cho các tổ chức còn thiếu hụt ngân sách lớn ít có khả năng làm lấn át các nguồn tài trợ khác.
Thế giới sẽ cần hàng trăm tỷ đô la để tài trợ cho các biện pháp can thiệp hiệu quả trong 15 năm tới. Khoảng trống này không thể được lấp đầy hoàn toàn chỉ bởi các quỹ lớn. Chẳng hạn, quỹ tài trợ của Good Ventures và Quỹ Gates lần lượt chỉ vào khoảng 8 tỷ - $8bn và 41 tỷ - $41bn USD.
Như đã đề cập, nếu bạn hoài nghi về việc quyên góp từ thiện, vẫn còn nhiều cách khác để bạn áp dụng các nguyên tắc của Thiện nguyện hiệu quả nhằm tạo ra sự thay đổi, chẳng hạn như lựa chọn một lĩnh vực sự nghiệp có tác động lớn.
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Iason Gabriel
Nguy cơ chúng ta không thực sự thấu hiểu và giải quyết đúng nhu cầu của những người mình đang giúp đỡ là có thật, và chúng ta phải luôn cảnh giác với rủi ro này. Nếu không lắng nghe và thấu hiểu người thụ hưởng, chúng ta sẽ kém hiệu quả đi, điều này hoàn toàn trái ngược với mục tiêu của chúng ta.
Một số người ủng hộ tổ chức GiveDirectly vì họ trao tiền mặt trực tiếp cho người nghèo, để người dân hoàn toàn tự quyết định cách sử dụng số tiền đó. Cách làm này có thể trao quyền cho người dân tốt hơn là việc áp đặt các dịch vụ mà có thể cộng đồng địa phương không thực sự mong muốn.
Các tổ chức khác mà chúng tôi hỗ trợ thì cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, như tiêm chủng hay bổ sung vi chất. Đây là những điều tốt đẹp một cách rõ ràng đến mức gần như chắc chắn người thụ hưởng sẽ trân trọng chúng. Sức khỏe tốt hơn có thể tiếp thêm sức mạnh để người dân tự cải thiện hoàn cảnh của mình theo những cách mà chúng ta, với tư cách là người ngoài cuộc, không thể làm thay được.
Trong những trường hợp khác, chúng tôi có thể tiến hành các đánh giá tác động chi tiết để xem người thụ hưởng thực sự cảm thấy thế nào về dịch vụ mà chúng tôi cung cấp. Tất nhiên, các cuộc khảo sát này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, nhưng đó thường là điều tốt nhất chúng ta có thể làm.
Với những đối tượng không thể nói lên tiếng nói của mình như động vật hoặc các thế hệ tương lai, vấn đề này còn phức tạp hơn nữa. Khi đó, mọi người phải cố gắng hết sức để dự đoán xem họ/chúng sẽ muốn gì nếu có thể giao tiếp với chúng ta. Những trường hợp hiển nhiên có thể kể đến như: lợn không muốn bị nhốt cả đời trong 'chuồng ép heo nái' chật hẹp, hoặc các thế hệ tương lai không muốn kế thừa một hành tinh mà con người không còn có thể dễ dàng sinh sống.
Tìm hiểu thêm:
Làm sao để không trở thành "vị cứu tinh da trắng"? (Bài học về phức cảm cứu thế) - How not to be a “white in shining armour”
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
Angus Deaton trên Boston Review
Jennifer Rubenstein trên Boston Review
Cecelia Lynch trên CIHA
Một số hành động chúng tôi khuyến nghị là những hành động đã được kiểm nghiệm và chứng tỏ có tác động lớn. Nhưng cũng có nhiều hành động có vẻ đầy hứa hẹn mà không khả thi để đánh giá bằng các phương pháp thực nghiệm như thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã có bằng chứng chất lượng cao, chúng tôi luôn xem xét chúng một cách rất nghiêm túc.
Nhiều tổ chức được truyền cảm hứng từ Thiện nguyện hiệu quả cũng đang thực hiện các dự án "mang tính suy đoán" hơn, những dự án mà tác động của chúng rất khó để định lượng. Ví dụ, Open Philanthropy Project hoạt động trong các lĩnh vực như cải cách nhập cư, cải cách tư pháp hình sự, kinh tế vĩ mô và phát triển quốc tế.
Tìm hiểu thêm:
Vì sao việc so sánh các tổ chức từ thiện lại phức tạp - Why comparing charities is complex
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
Emily Clough trên the Boston Review
Pascal-Emmanuel Gobry Gobry trên The Week
Cộng đồng thiện nguyện hiệu quả hưởng lợi nhiều điều từ việc đa dạng hơn. Ban đầu, cộng đồng này chủ yếu hình thành từ những người ở các quốc gia phát triển và các trường đại học hàng đầu. Tuy nhiên, khi ngày càng phát triển, cộng đồng đang thu hút thêm nhiều thành viên từ các hoàn cảnh khác nhau. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy các hội nghị EA được tổ chức tại nhiều thành phố trên khắp thế giới, từ Singapore cho đến Abuja, Nigeria.
Xét về mặt quan điểm và lối sống, chúng tôi lại rất đa dạng. Có người ăn chay, có người không. Nhìn chung, cộng đồng mang tính phi tôn giáo, nhưng vẫn có những thành viên theo các tôn giáo khác nhau. Các quan điểm chính trị cũng rất phong phú.
Dù nhiều người có những quan điểm và giá trị vững chắc, chúng tôi luôn đề cao việc xây dựng một cộng đồng biết tôn trọng sự khác biệt và sẵn sàng lắng nghe những lời phê bình. Điều gắn kết tất cả chúng tôi là niềm đam mê chung: giúp đỡ người khác nhiều nhất có thể.
Tìm hiểu thêm:
Quan điểm của Trung tâm Thiện nguyện hiệu quả (CEA) về sự đa dạng và hòa nhập - Centre for effective altruism’s stance on diversity and inclusion