Chúng ta nợ gì thế hệ tương lai, chương 1

Tác giả
William MacAskill
Xuất bản gốc tháng
August 17, 2022
bởi
EA Forum
Thời gian đọc bài viết
[time]
phút
Chúng ta nợ gì thế hệ tương lai, chương 1

Những người trong tương lai cũng quan trọng. Sẽ có rất nhiều người sống trong tương lai. Và chúng ta có thể làm cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.

Đây chính là lập luận ngắn gọn về chủ nghĩa dài hạn (longtermism). Các tiền đề rất đơn giản, và tôi không nghĩ chúng có gì đặc biệt gây tranh cãi. Tuy nhiên, việc xem xét chúng một cách nghiêm túc sẽ kéo theo một cuộc cách mạng về đạo đức — một cuộc cách mạng có hệ quả sâu rộng, làm thay đổi cách các nhà hoạt động, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách suy nghĩ và hành động, và chúng ta cũng nên như thế.

Những người tương lai cũng quan trọng, nhưng chúng ta hiếm khi đoái hoài đến họ. Họ không thể bỏ phiếu, vận động hành lang hay tranh cử, vì vậy các chính trị gia có rất ít động lực để nghĩ về họ. Họ không thể thương lượng hay giao dịch với chúng ta, vì vậy họ gần như không có sự hiện diện trên thị trường. Và họ không thể cất lên tiếng nói của mình một cách trực tiếp: họ không thể tweet, viết báo, hay xuống đường tuần hành. Họ hoàn toàn không có tiếng nói, không có quyền lực.

Các phong trào xã hội trước đây, như phong trào dân quyền và quyền bầu cử của phụ nữ, thường đấu tranh để mang lại sự công nhận và tầm ảnh hưởng lớn hơn cho những thành viên yếu thế trong xã hội. Tôi xem chủ nghĩa dài hạn chính là sự nối dài của những lý tưởng cao đẹp đó. Dù không thể trao cho những người tương lai quyền lực chính trị thực sự, chúng ta ít nhất có thể dành cho họ sự quan tâm của mình. Bằng cách thoát khỏi ách thống trị của hiện tại đối với tương lai, chúng ta có thể hành động như những người được ủy thác trách nhiệm — giúp kiến tạo một thế giới hưng thịnh cho các thế hệ mai sau. Điều này quan trọng hơn tất cả mọi thứ. Hãy để tôi giải thích tại sao.

Con người tương lai cũng quan trọng

Quan điểm cho rằng những người trong tương lai cũng quan trọng là một điều hết sức hiển nhiên. Xét cho cùng, họ cũng là con người. Họ sẽ tồn tại. Họ sẽ có những hy vọng, niềm vui, nỗi đau và nuối tiếc, giống như tất cả chúng ta. Chỉ là họ chưa tồn tại mà thôi.

Để thấy điều này trực quan đến mức nào, hãy giả sử khi đi dạo, tôi làm rơi một chai thủy tinh trên đường và nó vỡ tan. Và giả sử nếu tôi không dọn dẹp, rồi một đứa trẻ sẽ bị những mảnh vỡ đó cứa vào. Khi quyết định có nên dọn dẹp hay không, liệu thời điểm đứa trẻ bị thương có quan trọng không? Tôi có nên bận tâm việc đó sẽ xảy ra sau một tuần, một thập kỷ, hay một thế kỷ nữa không? Không. Tác hại vẫn là tác hại, bất kể khi nào nó xảy ra.

Giả như dịch bệnh sắp lan tới thị trấn và giết chết hàng ngàn người. Bạn có thể ngăn chặn nó. Trước khi hành động, bạn có cần biết khi nào dịch sẽ bùng phát không? Liệu điều đó có quan trọng không? Không. Nỗi đau và cái chết đang chực chờ cần được quan tâm bằng mọi giá.

Điều tương tự cũng đúng với những điều tốt đẹp. Hãy nghĩ về một điều bạn yêu thích trong cuộc sống của mình; có thể là âm nhạc hay thể thao. Và giờ hãy tưởng tượng một người khác cũng yêu một điều gì đó trong cuộc sống của họ nhiều như bạn. Liệu giá trị niềm vui của họ có biến mất nếu họ sống trong tương lai không? Giả sử bạn có thể tặng họ vé xem ban nhạc họ yêu thích hoặc đội bóng họ hâm mộ. Để quyết định có nên tặng hay không, bạn có cần biết đến ngày đưa vé?

Hãy tưởng tượng những người trong tương lai sẽ nghĩ gì, khi họ nhìn lại chúng ta đang tranh luận những câu hỏi như vậy. Họ sẽ thấy một số người trong chúng ta lập luận rằng những thế hệ sau không quan trọng. Nhưng họ nhìn xuống đôi tay mình; họ nhìn quanh cuộc sống của mình. Có gì khác biệt đâu? Có gì kém thực tế đâu? Phe nào trong cuộc tranh luận có vẻ sáng suốt và rành mạch hơn? Phe nào có vẻ thiển cận và cục bộ hơn?

Khoảng cách về thời gian cũng giống như khoảng cách về không gian. Mọi người vẫn quan trọng dù họ sống cách ta hàng ngàn cây số. Tương tự, họ vẫn quan trọng dù họ sống cách ta hàng ngàn năm sau. Trong cả hai trường hợp, thật dễ để nhầm lẫn khoảng cách với sự ảo ảnh, để xem giới hạn của tầm nhìn là giới hạn của thế giới. Nhưng cũng như thế giới không dừng lại ở ngưỡng cửa hay biên giới quốc gia, nó cũng không dừng lại ở thế hệ của chúng ta, hay thế hệ kế tiếp.

Những ý tưởng này là lẽ thường tình. Có một câu ngạn ngữ nổi tiếng rằng: “Một xã hội trở nên vĩ đại khi những người già trồng cây mà họ biết mình sẽ không bao giờ được ngồi dưới bóng mát của nó.” (người dịch: nhìn từ góc độ người VN và người tiếp nhận thì chúng tôi thấy có câu “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”). Khi xử lý chất thải phóng xạ, chúng ta không nói: “Ai quan tâm nếu thứ này đầu độc con người của nhiều thế kỷ sau?” Tương tự, rất ít người trong chúng ta quan tâm đến biến đổi khí hậu hay ô nhiễm chỉ vì lợi ích của những người đang sống hôm nay. Chúng ta xây dựng bảo tàng, công viên, những cây cầu với hy vọng chúng sẽ trường tồn qua nhiều thế hệ; chúng ta đầu tư vào trường học và các dự án khoa học dài hạn; chúng ta bảo tồn những bức tranh, những truyền thống, những ngôn ngữ; chúng ta bảo vệ những danh lam thắng cảnh. Trong nhiều trường hợp, chúng ta không vạch ra ranh giới rõ ràng giữa mối quan tâm cho hiện tại và cho tương lai khi cả hai đều có vai trò quan trọng.

Sự quan tâm đến các thế hệ tương lai là lẽ thường trong nhiều truyền thống tư tưởng khác nhau. Gayanashagowa, hiến pháp truyền miệng hàng thế kỷ của Liên minh Iroquois, có một tuyên bố đặc biệt rõ ràng. Nó kêu gọi các nhà lãnh đạo của Liên minh “phải luôn đặt tầm nhìn không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho cả các thế hệ sắp tới.” Oren Lyons, một người giữ gìn đức tin của các quốc gia Onondaga và Seneca thuộc Liên minh Iroquois, diễn đạt điều này theo nguyên tắc “thế hệ thứ bảy”, rằng: “Chúng tôi… đưa ra mọi quyết định dựa trên sự liên quan của nó đến phúc lợi và sự an lạc (welfare and well-being) của thế hệ thứ bảy trong tương lai… Chúng tôi luôn cân nhắc: liệu điều này có mang lại lợi ích cho thế hệ thứ bảy không?”

Tuy nhiên, ngay cả khi bạn đồng ý rằng những người tương lai cũng quan trọng, vẫn còn câu hỏi về việc nên đặt lợi ích của họ đến mức nào. Có lý do nào để chúng ta quan tâm đến những người đang sống hôm nay nhiều hơn không?

Có hai lý do nổi bật. Thứ nhất là sự thiên vị dành cho người thân. Chúng ta thường có những mối quan hệ đặc biệt mạnh mẽ hơn với những người ở hiện tại, như gia đình, bạn bè, đồng bào, hơn là với những người trong tương lai. Lẽ thường cho phép và thậm chí khuyến khích bạn dành sự ưu tiên hơn cho những người thân yêu và gần gũi của mình.

Lý do thứ hai là sự tương hỗ. Trừ khi bạn sống như một ẩn sĩ nơi hoang dã, hành động của vô số người như giáo viên, người bán hàng, kỹ sư, và mọi người nộp thuế khác — đều trực tiếp mang lại lợi ích cho bạn trong suốt cuộc đời. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu ai đó đã giúp mình, mình có lý do để đền đáp họ. Nhưng những người tương lai không mang lại lợi ích cho bạn theo cách mà những người đương thời làm.

Các mối quan hệ quyến thuộc và sự tương hỗ là quan trọng. Nhưng chúng không làm thay đổi kết luận cốt lõi trong lập luận của tôi. Tôi không cho rằng lợi ích của người hiện tại và người tương lai lúc nào cũng nên được cân ngang hàng. Tôi chỉ cho rằng những người tương lai cũng quan trọng một cách đáng kể. Cũng như việc yêu thương con cái của chúng ta hơn không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của người lạ, việc quan tâm đến những người đương thời nhiều hơn không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của con cháu chúng ta.

Để minh họa, giả sử một ngày nào đó chúng ta phát hiện ra Atlantis, một nền văn minh lớn dưới đáy biển. Chúng ta nhận ra rằng nhiều hoạt động của mình ảnh hưởng đến Atlantis. Khi chúng ta đổ rác ra đại dương, chúng ta đầu độc công dân của họ; khi một con tàu chìm, họ tái chế nó để lấy phế liệu. Chúng ta không có mối quan hệ đặc biệt nào với người dân Atlantis, cũng không nợ họ sự đền đáp nào. Nhưng chúng ta vẫn nên xem xét một cách nghiêm túc cách hành động của mình ảnh hưởng đến họ.

Tương lai cũng giống như Atlantis. Đó cũng là một xứ sở rộng lớn, chưa được khám phá; và liệu xứ sở đó có hưng thịnh hay suy tàn phụ thuộc, một phần đáng kể, vào những gì chúng ta làm hôm nay.

Tương lai rộng lớn

Quan điểm cho rằng những người trong tương lai cũng quan trọng là một điều hiển nhiên. Tương tự, quan điểm rằng những con số có ý nghĩa về mặt đạo đức cũng là một điều hiển nhiên. Nếu bạn có thể cứu một người hoặc mười người khỏi một đám cháy, thì nếu mọi yếu tố khác là như nhau, bạn nên cứu mười người. Nếu bạn có thể chữa bệnh cho một trăm người hoặc một nghìn người, bạn nên chữa cho một nghìn người. Điều này rất quan trọng, bởi vì số lượng người trong tương lai có thể là một con số khổng lồ.

Để thấy rõ điều này, hãy cùng nhìn lại chặng đường lịch sử của nhân loại. Các thành viên của chi Homo đã có mặt trên Trái đất hơn 2,5 triệu năm. Loài của chúng ta, Homo sapiens, đã tiến hóa khoảng 300.000 năm trước. Nông nghiệp chỉ mới bắt đầu từ 12.000 năm trước, những thành phố đầu tiên được hình thành cách đây 6.000 năm, kỷ nguyên công nghiệp bắt đầu khoảng 250 năm trước, và tất cả những thay đổi diễn ra kể từ đó — từ xe ngựa kéo đến du hành vũ trụ, từ chữa bệnh bằng đỉa đến cấy ghép tim, từ máy tính cơ đến siêu máy tính — tất cả chỉ diễn ra trong vòng ba đời người.

Loài người chúng ta sẽ tồn tại được bao lâu? Tất nhiên, chúng ta không biết. Nhưng chúng ta có thể đưa ra những ước tính có cơ sở, tính đến sự không chắc chắn của mình, bao gồm cả sự không chắc chắn về việc liệu chúng ta có tự hủy diệt bản thân hay không.

Để minh họa quy mô tiềm năng của tương lai, giả sử rằng chúng ta chỉ tồn tại trong thời gian của các loài động vật có vú điển hình, tức là khoảng một triệu năm. Cũng giả sử rằng dân số của chúng ta tiếp tục ở mức hiện tại. Trong trường hợp đó, sẽ có 80 nghìn tỷ người sinh ra; số người trong tương lai sẽ gấp 10.000 lần số người hiện tại.

Tất nhiên, chúng ta phải xem xét tất cả các khả năng có thể xảy ra trong tương lai. Tuổi thọ của loài chúng ta có thể ngắn hơn nhiều so với các loài động vật có vú khác nếu chúng ta tự hủy diệt bản thân. Nhưng nó cũng có thể dài hơn nhiều. Khác với các loài động vật có vú khác, chúng ta có các công cụ phức tạp giúp thích nghi với môi trường đa dạng; khả năng suy luận trừu tượng, cho phép chúng ta lập kế hoạch phức tạp, dài hạn để ứng phó với hoàn cảnh mới; và một văn hóa chung cho phép chúng ta hoạt động trong các nhóm hàng triệu người. Những yếu tố này giúp chúng ta tránh được các mối đe dọa tuyệt chủng mà các loài động vật có vú khác không thể.

Điều này có tầm ảnh hưởng bất đối xứng đến tuổi thọ của loài người. Tương lai của nền văn minh có thể rất ngắn, kết thúc trong vài thế kỷ. Nhưng cũng có thể cực kỳ dài. Trái đất sẽ vẫn có thể sinh sống trong hàng trăm triệu năm. Nếu chúng ta sống sót được lâu như vậy, với dân số mỗi thế kỷ như hiện nay, sẽ có một triệu người trong tương lai cho mỗi người đang sống ngày nay. Và nếu nhân loại cuối cùng chinh phục vũ trụ, quy mô thời gian sẽ trở nên thực sự vũ trụ. Mặt Trời sẽ tiếp tục cháy trong năm tỷ năm; các cụm sao truyền thống cuối cùng sẽ hình thành sau hơn một nghìn tỷ năm; và do dòng chảy nhỏ nhưng liên tục của các va chạm giữa các sao lùn nâu, một số sao vẫn sẽ sáng rực sau một triệu nghìn tỷ năm nữa.

Khả năng thực sự rằng nền văn minh sẽ tồn tại trong một thời gian dài như vậy mang lại cho nhân loại một tuổi thọ kỳ vọng (life expectancy) khổng lồ. Chỉ cần 10% cơ hội sống sót qua năm trăm triệu năm cho đến khi Trái đất không còn là nơi có thể sinh sống, chúng ta đã có một tuổi thọ kỳ vọng hơn năm mươi triệu năm. Chỉ cần 1% cơ hội sống sót cho đến khi những ngôi sao cuối cùng trong vũ trụ lụi tàn, chúng ta đã có một tuổi thọ kỳ vọng hơn mười tỷ năm.

Cuối cùng, chúng ta không nên chỉ quan tâm đến tuổi thọ của nhân loại, mà còn cả việc sẽ có bao nhiêu người. Vì vậy, chúng ta phải đặt câu hỏi: Trong tương lai, sẽ có bao nhiêu người cùng tồn tại tại một thời điểm?

Dân số tương lai có thể nhỏ hơn nhiều hoặc lớn hơn nhiều so với ngày nay. Nhưng nếu nhỏ hơn, nó chỉ có thể giảm đi tối đa là tám tỷ người — tức quy mô dân số hiện tại. Ngược lại, nếu lớn hơn, nó có thể lớn hơn rất nhiều. Dân số toàn cầu hiện tại đã đông hơn một nghìn lần so với thời kỳ săn bắt hái lượm. Nếu mật độ dân số toàn cầu tăng lên bằng của Hà Lan — một quốc gia xuất khẩu ròng nông sản — sẽ có bảy mươi tỷ người cùng chung sống. Điều này nghe có vẻ viển vông, nhưng con số tám tỷ người cũng từng là một điều viển vông đối với một người săn bắt hái lượm thời tiền sử hay một nông dân thời kỳ đầu.

Quy mô dân số có thể tăng vọt một lần nữa nếu một ngày nào đó chúng ta vươn tới các vì sao. Mặt trời của chúng ta tạo ra một lượng năng lượng lớn hơn hàng tỷ lần so với lượng chiếu xuống Trái đất, có hàng chục tỷ ngôi sao khác trong dải Ngân hà của chúng ta, và hàng tỷ thiên hà khác trong tầm với. Do đó, số lượng người trong tương lai xa có thể đông hơn rất nhiều so với ngày nay.

Chính xác là bao nhiêu? Việc ước tính chính xác là bất khả thi và cũng không cần thiết. Theo mọi cách tính hợp lý, con số đó là vô cùng lớn.

Để dễ hình dung, hãy nhìn vào biểu đồ sau. Mỗi hình nhân đại diện cho mười tỷ người. Cho đến nay, có khoảng một trăm tỷ người đã từng sống trên đời. Những người trong quá khứ này được biểu thị bằng mười hình nhân. Thế hệ hiện tại có gần tám tỷ người, tôi sẽ làm tròn thành mười tỷ và biểu thị bằng một hình nhân duy nhất:

Tiếp theo, chúng ta sẽ hình dung về tương lai. Hãy thử xem xét một kịch bản: chúng ta duy trì mức dân số hiện tại và sống trên Trái đất trong năm trăm triệu năm nữa. Dưới đây là tất cả những người trong tương lai: Khi được thể hiện một cách trực quan, chúng ta bắt đầu thấy được có bao nhiêu sinh mạng đang ở trong thế rủi ro. Nhưng tôi đã phải cắt ngắn biểu đồ này. Phiên bản đầy đủ của nó sẽ cần đến hai mươi nghìn trang giấy — dày hơn cuốn sách này cả trăm lần. Mỗi hình nhân sẽ đại diện cho mười tỷ sinh mạng, và mỗi sinh mạng đó có thể hưng thịnh hoặc khốn cùng

Trước đó, tôi đã ví nhân loại ngày nay như một thiếu niên thiếu thận trọng và liều lĩnh: phần lớn cuộc đời vẫn còn ở phía trước, và những quyết định ảnh hưởng đến phần còn lại của cuộc đời đó có tầm quan trọng khổng lồ. Nhưng thực ra, phép ẩn dụ này vẫn chưa nói hết tầm vóc của vấn đề. Một thiếu niên biết gần đúng mình sẽ sống được bao lâu. Nhưng chúng ta lại không biết tuổi thọ của nhân loại. Chúng ta giống một thiếu nữ hơn, người mà, theo những gì cô nàng biết, có thể vô tình tự kết liễu đời mình trong vài tháng tới, nhưng cũng có thể sẽ sống cả một nghìn năm. Nếu ở trong hoàn cảnh đó, liệu bạn có suy nghĩ nghiêm túc về một cuộc đời dài lâu có thể đang chờ đợi phía trước, hay bạn sẽ phớt lờ nó?

Sự rộng lớn của tương lai có thể gây choáng ngợp. Thông thường, tư duy “dài hạn” của chúng ta chỉ gói gọn trong vài năm hay vài thập kỷ là cùng. Nhưng ngay cả với một ước tính khiêm tốn về tuổi thọ của nhân loại, thì cách tư duy đó cũng chẳng khác nào một thiếu niên tin rằng nghĩ dài hạn là nghĩ cho ngày mai, chứ không phải ngày mốt.

Bất chấp những suy nghĩ về tương lai có thể choáng ngợp đến đâu, nếu chúng ta thực sự quan tâm đến lợi ích của các thế hệ tương lai — nếu chúng ta thừa nhận rằng họ là những con người thật, cũng có khả năng hạnh phúc và đau khổ như chúng ta — thì chúng ta có nghĩa vụ phải cân nhắc xem mình sẽ tác động đến thế giới mà họ sinh sống như thế nào.

Giá trị của Tương lai

Tương lai có thể rộng mở. Nó có thể rất tốt đẹp—hoặc rất tệ.

Để cảm nhận được thế giới có thể tốt đẹp đến mức nào, chúng ta có thể nhìn vào những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được trong vài thế kỷ qua. Hai trăm năm trước, tuổi thọ trung bình chưa đến ba mươi; ngày nay, con số đó là bảy mươi ba. Khi ấy, hơn 80% dân số thế giới sống trong cảnh nghèo cùng cực; bây giờ, con số đó chưa đến 10%. Khi ấy, chỉ khoảng 10% người trưởng thành biết đọc; ngày nay, hơn 85% có thể đọc.

Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để vừa thúc đẩy những xu hướng tích cực này, vừa thay đổi chiều hướng của những xu hướng tiêu cực, như sự gia tăng đột biến của khí thải carbon dioxide hay số lượng động vật phải chịu đau khổ trong các trang trại công nghiệp. Chúng ta có thể xây dựng một thế giới nơi mọi người đều được sống như những người hạnh phúc nhất ở các quốc gia thịnh vượng nhất ngày nay, một thế giới không còn đói nghèo, không ai thiếu thốn chăm sóc y tế, và trong chừng mực có thể, mọi người đều được tự do sống theo cách mình muốn.

Nhưng chúng ta thậm chí có thể làm tốt hơn thế nữa—tốt hơn rất nhiều. Những gì tốt nhất chúng ta từng thấy cho đến nay chỉ là một thước đo nghèo nàn cho những gì là khả thi. Để mường tượng được phần nào điều này, hãy thử hình dung cuộc sống của một người đàn ông giàu có ở Anh vào năm 1700—một người được tiếp cận với thực phẩm, y tế và những thứ xa hoa bậc nhất thời đó. Dù có tất cả những lợi thế ấy, ông ta vẫn có thể dễ dàng chết vì bệnh đậu mùa, giang mai hay sốt phát ban. Nếu cần phẫu thuật hay bị đau răng, việc điều trị sẽ đau đớn đến kinh hoàng và có nguy cơ nhiễm trùng rất cao. Nếu sống ở London, không khí ông ta hít thở sẽ ô nhiễm gấp mười bảy lần so với ngày nay. Việc đi lại ngay trong nước Anh cũng có thể mất hàng tuần, và phần lớn thế giới hoàn toàn nằm ngoài tầm với của ông. Nếu ông ta chỉ tưởng tượng ra một tương lai nơi hầu hết mọi người đều giàu có như mình, ông ta đã không thể nào lường trước được vô số những điều đã cải thiện cuộc sống của chúng ta, như điện, thuốc gây mê, thuốc kháng sinh và các phương tiện đi lại hiện đại.

Không chỉ công nghệ đã cải thiện cuộc sống con người; sự thay đổi về mặt đạo đức cũng đã làm được điều đó. Năm 1700, phụ nữ không thể vào đại học, và phong trào nữ quyền chưa hề tồn tại. Nếu người đàn ông giàu có đó là người đồng tính, ông không thể yêu một cách công khai; quan hệ đồng giới nam có thể bị xử tử. Vào cuối những năm 1700, cứ bốn người trên thế giới thì có ba người là nạn nhân của một hình thức lao động cưỡng bức nào đó; ngày nay con số đó chưa đến 1%. Năm 1700, không ai được sống trong một nền dân chủ. Ngày nay, hơn một nửa thế giới có được điều đó.

Phần lớn những tiến bộ chúng ta đạt được từ năm 1700 là những điều rất khó để người đương thời có thể lường trước. Và đó chỉ là khoảng cách ba thế kỷ. Nhân loại có thể tồn tại hàng triệu thế kỷ chỉ riêng trên Trái đất. Ở một quy mô như vậy, nếu chúng ta chỉ neo giữ trí tưởng tượng của mình về tiềm năng của nhân loại vào một phiên bản vá víu của thế giới hiện tại, chúng ta có nguy cơ đánh giá thấp một cách trầm trọng về việc cuộc sống trong tương lai có thể tốt đẹp đến nhường nào.

Hãy nghĩ về những khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cuộc đời bạn—những khoảnh khắc đầy niềm vui, vẻ đẹp và tràn năng lượng, như khi yêu chẳng hạn, hay khi đạt được một mục tiêu để đời, hay khi có một ý tưởng sáng tạo chợt lóe. Những khoảnh khắc này là bằng chứng cho những gì là khả thi: chúng ta biết rằng cuộc sống có thể ít nhất là tốt đẹp như thế. Nhưng chúng cũng chỉ cho ta một hướng đi mà cuộc đời có thể tiến tới, dẫn đến một nơi ta chưa từng đặt chân đến. Nếu những ngày đẹp nhất của tôi có thể tuyệt vời hơn hàng trăm lần so với cuộc sống thường ngày đều đều, tẻ nhạt, thì có lẽ những ngày đẹp nhất của những người trong tương lai cũng có thể tuyệt vời hơn hàng trăm lần nữa.

Tôi không nói rằng một tương lai huy hoàng là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Về mặt từ nguyên, “utopia” có nghĩa là “không đâu cả”, và quả thực con đường từ đây đến một trạng thái tương lai lý tưởng nào đó rất mong manh. Nhưng một tương lai huy hoàng cũng không chỉ là một ảo mộng. Một từ đúng hơn sẽ là “eutopia,” có nghĩa là “miền đất tốt lành”—một điều đáng để phấn đấu. Đó là một tương lai mà, với đủ sự kiên nhẫn và khôn ngoan, con cháu chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng—nếu chúng ta dọn đường cho họ.

Và dù tương lai có thể huy hoàng, nó cũng có thể trở nên tồi tệ. Để thấy điều này, hãy nhìn vào những xu hướng tiêu cực trong quá khứ và tưởng tượng một tương lai nơi chúng trở thành những thế lực thống trị. Hãy nghĩ đến việc chế độ nô lệ đã gần như biến mất khỏi Pháp và Anh vào cuối thế kỷ 12, nhưng trong thời kỳ thuộc địa, chính những quốc gia đó lại trở thành những kẻ buôn bán nô lệ trên quy mô lớn. Hay việc giữa thế kỷ 20 đã chứng kiến các chế độ toàn trị trỗi dậy ngay từ chính các nền dân chủ. Hay việc chúng ta đã dùng các tiến bộ khoa học để tạo ra vũ khí hạt nhân và các trang trại công nghiệp.

Cũng như “miền đất địa đàng” (eutopia) là một khả năng có thật, thì “xã hội phản địa đàng địa” (dystopia) cũng vậy. Tương lai có thể là một nơi mà một chế độ toàn trị duy nhất kiểm soát cả thế giới, hoặc nơi chất lượng cuộc sống ngày nay chỉ còn là một ký ức xa xôi về một Thời đại Hoàng kim đã qua, hoặc nơi một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đã hủy diệt hoàn toàn nền văn minh. Tương lai sẽ huy hoàng hay tăm tối, một phần, phụ thuộc vào chúng ta.

Không chỉ là Biến đổi Khí hậu

Ngay cả khi bạn chấp nhận rằng tương lai rộng mở và quan trọng đến thế, bạn có thể vẫn hoài nghi về khả năng chúng ta có thể tác động tích cực đến nó. Và tôi đồng ý rằng việc xác định những hành động của chúng ta có tác động dài hạn thế nào cũng vô cùng khó khăn. Có rất nhiều yếu tố cần cân nhắc, và sự hiểu biết của chúng ta về chúng chỉ mới bắt đầu. Mục đích của tôi với cuốn sách này là để kích thích thêm các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này, chứ không phải để đưa ra bất kỳ kết luận cuối cùng nào về việc chúng ta nên làm gì. Nhưng tương lai quan trọng đến mức chúng ta ít nhất phải cố gắng tìm ra cách lèo lái nó đi theo một hướng tích cực. Và, ngay từ bây giờ, đã có một số điều chúng ta có thể khẳng định.

Nhìn về quá khứ, dù không có nhiều ví dụ về những người chủ đích nhắm đến các tác động dài hạn, chúng thực sự tồn tại, và một số đã thành công một cách đáng ngạc nhiên. Các nhà thơ là một ví dụ. Trong bài Sonnet số 18 của Shakespeare (“Ta có nên ví em với ngày hè?”), tác giả đã ghi dấu bằng nghệ thuật, ông đã lưu giữ hình ảnh chàng trai trẻ mà ông ngưỡng mộ cho muôn đời sau:

Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không tàn phai, .........

Khi em lớn lên cùng những vần thơ bất tử.

Chừng nào con người còn thở, mắt còn trông, 

Thì thơ này còn sống, và trao sự sống cho em.

Bài Sonnet 18 được viết vào những năm 1590 nhưng là sự tiếp nối của một truyền thống đã có từ rất lâu trước đó. Năm 23 trước Công nguyên, nhà thơ La Mã Horace đã bắt đầu bài thơ cuối cùng trong tập Odes của mình với những dòng này:

Ta đã dựng nên một tượng đài bền hơn cả đồng thiếc, cao hơn cả kim tự tháp của các bậc đế vương, một tượng đài mà mưa tuôn xói mòn hay gió Bắc hung tàn cũng chẳng thể phá hủy, cũng như chuỗi năm tháng vô tận, hay dòng chảy của thời gian. Ta sẽ không chết hoàn toàn, một phần lớn của ta sẽ thoát khỏi tay Nữ thần Chết.

Những tuyên bố này nghe có vẻ khoa trương. Nhưng, rất có thể, những nỗ lực để bất tử của các nhà thơ này đã thành công. Các tác phẩm của họ đã tồn tại hàng trăm năm và thực tế ngày càng hưng thịnh theo thời gian: ngày nay có nhiều người đọc Shakespeare hơn cả thời của ông, và điều tương tự có lẽ cũng đúng với Horace. Và chừng nào mỗi thế hệ tương lai còn có người sẵn lòng trả một cái giá rất nhỏ để bảo tồn hay sao chép những bài thơ này, chúng sẽ tồn tại mãi mãi.

Các nhà văn khác cũng đã thành công trong việc nhắm đến những tác động rất dài hạn. Thucydides đã viết tác phẩm Lịch sử cuộc chiến Peloponnesian vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Nhiều người coi ông là nhà sử học phương Tây đầu tiên cố gắng mô tả các sự kiện một cách trung thực và phân tích nguyên nhân của chúng. Ông tin rằng mình đang mô tả những chân lý phổ quát, và đã chủ đích viết nên tác phẩm lịch sử của mình để nó có thể có ảnh hưởng sâu rộng đến tương lai:

Tuy nhiên, đối với tôi, chỉ cần những dòng chữ này của mình được xem là hữu ích bởi những ai muốn thấu hiểu rõ ràng các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và (với bản chất con người vốn là như vậy) sẽ, vào một lúc nào đó, lặp lại trong tương lai theo những cách gần như tương tự, là đã đủ rồi. Tác phẩm của tôi không phải là một bài viết được thiết kế để chiều theo thị hiếu của công chúng nhất thời, mà được tạo ra để trường tồn với thời gian.

Tác phẩm của Thucydides vẫn có ảnh hưởng to lớn cho đến ngày nay. Nó là tài liệu đọc bắt buộc tại các học viện quân sự West Point, Annapolis và Trường Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ. Cuốn sách nổi tiếng năm 2017 Destined for War (Định mệnh chiến tranh), của nhà khoa học chính trị Graham Allison, có phụ đề Liệu Mỹ và Trung Quốc có thoát khỏi Bẫy Thucydides không? Allison đã phân tích quan hệ Mỹ-Trung bằng chính những thuật ngữ mà Thucydides đã dùng cho Sparta và Athens. Theo những gì tôi biết, Thucydides là người đầu tiên trong lịch sử thành công trong việc chủ đích nhắm đến một tác động dài hạn.

Những ví dụ gần đây hơn đến từ các Nhà Lập quốc của Hoa Kỳ. Hiến pháp Hoa Kỳ đã gần 250 năm tuổi và gần như vẫn giữ nguyên trong suốt thời gian đó. Sự ra đời của nó có tầm quan trọng dài hạn to lớn, và nhiều Nhà Lập quốc đã nhận thức rõ điều này. John Adams, tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ, đã nhận xét: “Các thể chế được tạo ra ở Mỹ bây giờ sẽ không hoàn toàn mai một sau hàng ngàn năm. Do đó, việc chúng phải được bắt đầu một cách đúng đắn là điều tối quan trọng. Nếu chúng khởi sự sai lầm, chúng sẽ không bao giờ có thể quay lại con đường đúng đắn, trừ khi là do ngẫu nhiên.”

Tương tự, Benjamin Franklin nổi tiếng với niềm tin vào sự vững mạnh và trường tồn của Hoa Kỳ đến nỗi vào năm 1784, một nhà toán học người Pháp đã viết một bài châm biếm thân thiện về ông, gợi ý rằng nếu Franklin thực sự tin tưởng, ông nên đầu tư tiền của mình vào các dự án xã hội và để chúng chi trả sau nhiều thế kỷ, tận dụng lợi ích của lãi suất kép. Franklin cho rằng đó là một ý tưởng tuyệt vời, và vào năm 1790, ông đã đầu tư mỗi nơi 1.000 bảng Anh (khoảng 135.000 USD theo giá trị ngày nay) cho hai thành phố Boston và Philadelphia: ba phần tư số tiền sẽ được giải ngân sau một trăm năm, và phần còn lại sau hai trăm năm. Đến năm 1990, khi các quỹ cuối cùng được phân phát, khoản quyên góp đã tăng lên gần 5 triệu USD cho Boston và 2,3 triệu USD cho Philadelphia.

Chính các Nhà Lập quốc cũng bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng đã được phát triển trước họ gần hai nghìn năm. Quan điểm của họ về sự phân chia quyền lực đã được định hình bởi Locke và Montesquieu, những người lại học hỏi từ phân tích của Polybius về hệ thống quản trị La Mã từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Chúng ta cũng biết rằng một số Nhà Lập quốc đã quen thuộc với các tác phẩm của Polybius.

Những người trong chúng ta ở hiện tại không cần phải có tầm ảnh hưởng như Thucydides hay Franklin để có thể tác động một cách có thể lường trước đến tương lai dài hạn. Thực tế, chúng ta vẫn làm điều đó mọi lúc. Chúng ta lái xe. Chúng ta đi máy bay. Qua đó chúng ta thải ra khí nhà kính với những tác động vô cùng lâu dài. Các quá trình tự nhiên sẽ chỉ có thể đưa nồng độ carbon dioxide trở lại mức tiền công nghiệp sau hàng trăm nghìn năm. Đây là những quy mô thời gian thường chỉ được nhắc đến với chất thải hạt nhân phóng xạ. Tuy nhiên, với năng lượng hạt nhân, chúng ta cẩn thận lưu trữ và lên kế hoạch chôn lấp chất thải; còn với nhiên liệu hóa thạch, chúng ta lại thải chúng ra không khí một cách bừa bãi.

Trong một số trường hợp, các tác động địa vật lý của sự nóng lên này thậm chí còn trở nên khắc nghiệt hơn theo thời gian thay vì phai nhạt đi. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) dự báo rằng trong kịch bản phát thải trung bình-thấp, vốn được xem là có khả năng xảy ra nhất, mực nước biển sẽ tăng khoảng 0,75 mét vào cuối thế kỷ này. Nhưng nó sẽ tiếp tục tăng rất lâu sau năm 2100. Sau mười nghìn năm, mực nước biển sẽ cao hơn từ mười đến hai mươi mét so với ngày nay. Hà Nội, Thượng Hải, Kolkata, Tokyo, và New York khi đó đều sẽ nằm phần lớn dưới mực nước biển.

Biến đổi khí hậu cho thấy các hành động ngày nay có thể gây ra những hậu quả dài hạn như thế nào. Nhưng nó cũng nhấn mạnh rằng các hành động hướng đến tương lai không nhất thiết có nghĩa là phớt lờ lợi ích của những người đang sống hôm nay. Chúng ta có thể lèo lái tương lai một cách tích cực, đồng thời cải thiện cả hiện tại.

Việc chuyển sang năng lượng sạch mang lại những lợi ích to lớn cho sức khỏe con người ngay trong hiện tại. Việc đốt nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm không khí với các hạt bụi mịn gây ung thư phổi, bệnh tim và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Kết quả là, mỗi năm có khoảng 3,6 triệu người chết sớm. Ngay cả ở Liên minh châu Âu, một khu vực tương đối ít ô nhiễm so với toàn cầu, ô nhiễm không khí từ nhiên liệu hóa thạch cũng làm cho mỗi công dân trung bình mất đi một năm tuổi thọ.

Giải trừ carbon — tức là thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng các nguồn năng lượng sạch hơn — do đó mang lại những lợi ích sức khỏe to lớn và tức thời, bên cạnh các lợi ích khí hậu dài hạn. Một khi đã tính đến ô nhiễm không khí, việc nhanh chóng giải trừ carbon cho nền kinh tế thế giới là hoàn toàn xác đáng chỉ dựa trên lợi ích sức khỏe.

Do đó, giải trừ carbon là một giải pháp một mũi tên trúng nhiều đích, cải thiện cuộc sống cả trong dài hạn và ngắn hạn. Thực tế, việc thúc đẩy đổi mới trong năng lượng sạch — như năng lượng mặt trời, gió, hạt nhân thế hệ mới, và các nhiên liệu thay thế — cũng là một thắng lợi trên nhiều mặt trận khác. Bằng cách làm cho năng lượng rẻ hơn, nó cải thiện mức sống ở các nước nghèo. Bằng cách giúp giữ nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất, nó bảo vệ chúng ta khỏi nguy cơ sụp đổ không thể phục hồi mà tôi sẽ thảo luận ở Chương 6. Bằng cách thúc đẩy tiến bộ công nghệ, nó làm giảm nguy cơ trì trệ dài hạn mà tôi sẽ thảo luận ở Chương 7. Một giải pháp thắng-thắng-thắng-thắng-thắng.

Giải trừ carbon là một minh chứng cho ý tưởng của chủ nghĩa dài hạn. Đổi mới năng lượng sạch tốt một cách bền vững, và vẫn còn rất nhiều việc phải làm trong lĩnh vực đó, đến nỗi tôi xem nó như một hoạt động dài hạn nền tảng mà các hành động tiềm năng khác có thể được so sánh với. Nó đã đặt ra một tiêu chuẩn rất cao.

Nhưng đó không phải là cách duy nhất để tác động đến tương lai dài hạn. Phần còn lại của cuốn sách này sẽ cố gắng trình bày một cách có hệ thống về những cách chúng ta có thể ảnh hưởng tích cực đến tương lai lâu dài. Sách sẽ gợi ý rằng sự thay đổi về đạo đức, việc quản trị một cách khôn ngoan sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo, ngăn chặn các đại dịch nhân tạo, và phòng tránh sự trì trệ công nghệ đều là những lĩnh vực quan trọng không kém, và thường bị bỏ quên (neglected) rất nhiều.

Thời khắc lịch sử của chúng ta

Ý tưởng rằng chúng ta có thể tác động đến tương lai dài hạn, và rằng có quá nhiều thứ quan trọng đang ở thế rủi ro, nghe có vẻ quá hoang đường đến mức khó tin. Ban đầu, cá nhân tôi cũng cảm thấy như vậy.

Nhưng tôi cho rằng sự "hoang đường" của chủ nghĩa dài hạn không đến từ những tiền đề đạo đức nền tảng, mà đến từ chính sự thật rằng chúng ta đang sống trong một thời đại đặc biệt chưa từng có.

Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của những thay đổi phi thường. Để thấy rõ điều này, hãy xem xét tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trong những thập kỷ gần đây đạt trung bình khoảng 3% mỗi năm. Đây là một con số chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Trong 290.000 năm đầu tiên tồn tại của nhân loại, tăng trưởng toàn cầu gần như bằng 0; trong thời đại nông nghiệp, con số đó tăng lên khoảng 0,1%, và rồi tăng tốc sau cuộc Cách mạng Công nghiệp. Chỉ trong một trăm năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới mới tăng trưởng với tốc độ trên 2% mỗi năm.

Nói một cách khác cho dễ hình dung: từ năm 10.000 trước Công nguyên trở đi, phải mất hàng trăm năm để nền kinh tế thế giới tăng gấp đôi quy mô. Lần tăng gấp đôi gần đây nhất chỉ mất mười chín năm. Và không chỉ tốc độ tăng trưởng kinh tế mới là điều bất thường trong lịch sử; điều tương tự cũng đúng với tốc độ sử dụng năng lượng, lượng khí thải carbon dioxide, sự thay đổi trong việc sử dụng đất, sự tiến bộ khoa học, và có thể cho là cả sự thay đổi về đạo đức.

Vậy chúng ta biết rằng kỷ nguyên hiện tại cực kỳ đặc biệt so với quá khứ. Nhưng nó cũng đặc biệt so với cả tương lai. Tốc độ thay đổi chóng mặt này không thể tiếp diễn mãi mãi, ngay cả khi chúng ta tách rời hoàn toàn tăng trưởng khỏi khí thải carbon và ngay cả khi trong tương lai chúng ta có vươn tới các vì sao. Để thấy điều này, hãy giả sử rằng tăng trưởng trong tương lai chậm lại một chút, chỉ còn 2% mỗi năm. Với tốc độ đó, trong mười nghìn năm, nền kinh tế thế giới sẽ lớn hơn 10⁸⁶ lần so với ngày nay — tức là, chúng ta sẽ tạo ra một trăm nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ lần nhiều của cải hơn hiện tại. Nhưng chỉ có chưa đến 10⁶⁷ nguyên tử trong vòng mười nghìn năm ánh sáng quanh Trái đất. Vì vậy, nếu tốc độ tăng trưởng hiện tại tiếp tục chỉ trong mười thiên niên kỷ nữa, thì lượng của cải tạo ra sẽ phải tương đương với mười triệu nghìn tỷ lần thế giới hiện tại của chúng ta cho mỗi một nguyên tử mà về nguyên tắc, chúng ta có thể tiếp cận. Dù không thể chắc chắn, điều này dường như là bất khả thi.

Nhân loại có thể tồn tại hàng triệu, thậm chí hàng tỷ năm nữa. Nhưng tốc độ thay đổi của thế giới hiện đại chỉ có thể tiếp diễn trong khoảng vài nghìn năm. Điều này có nghĩa là chúng ta đang sống trong một chương phi thường của lịch sử nhân loại. So với cả quá khứ và tương lai, mỗi thập kỷ chúng ta sống đều chứng kiến một số lượng thay đổi kinh tế và công nghệ đặc biệt lớn. Và một số thay đổi này — như sự ra đời của năng lượng hóa thạch, vũ khí hạt nhân, mầm bệnh nhân tạo, và trí tuệ nhân tạo tiên tiến — có tiềm năng tác động đến toàn bộ vận mệnh của tương lai.

Không chỉ tốc độ thay đổi chóng mặt làm cho thời đại này trở nên đặc biệt. Chúng ta còn được kết nối một cách khác thường. Trong hơn năm mươi nghìn năm, nhân loại bị chia cắt thành các nhóm riêng biệt; đơn giản là không có cách nào để người dân ở châu Phi, châu Âu, châu Á, hay Úc có thể liên lạc với nhau. Giữa năm 100 TCN và 150 SCN, Đế chế La Mã và nhà Hán mỗi bên chiếm tới 30% dân số thế giới, nhưng họ hầu như không biết gì về sự tồn tại của nhau. Ngay cả trong cùng một đế chế, một người cũng có khả năng rất hạn chế để liên lạc với người ở nơi xa.

Trong tương lai, nếu chúng ta vươn tới các vì sao, chúng ta sẽ lại một lần nữa bị chia cắt. Dải Ngân hà giống như một quần đảo, với những khoảng không bao la trống rỗng được điểm xuyết bởi những đốm ấm nhỏ li ti. Nếu Dải Ngân hà lớn bằng Trái đất, hệ mặt trời của chúng ta sẽ chỉ rộng mười centimet và hàng trăm mét sẽ ngăn cách chúng ta với những người hàng xóm. Từ đầu này đến đầu kia của dải Ngân hà, việc liên lạc nhanh nhất cũng mất một trăm nghìn năm; ngay cả giữa chúng ta và người hàng xóm gần nhất, việc liên lạc hai chiều cũng mất gần chín năm.

Thực tế, nếu nhân loại vươn đủ xa và tồn tại đủ lâu, việc một phần của nền văn minh liên lạc với phần khác cuối cùng sẽ trở thành bất khả thi. Vũ trụ được cấu thành từ hàng triệu cụm thiên hà. Cụm của chúng ta được gọi đơn giản là Nhóm Địa phương. Các thiên hà trong mỗi cụm đủ gần để lực hấp dẫn liên kết chúng lại với nhau mãi mãi. Nhưng, vì vũ trụ đang giãn nở, các cụm thiên hà cuối cùng sẽ bị xé khỏi nhau. Trong hơn 150 tỷ năm nữa, ngay cả ánh sáng cũng sẽ không thể đi từ cụm này đến cụm khác.

Sự đặc biệt của thời đại chúng ta mang lại một cơ hội lớn hơn bao giờ hết để tạo ra sự khác biệt. Rất ít người trong số những người đã, đang và sẽ sống có được quyền năng tác động tích cực đến tương lai nhiều như chúng ta. Sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, xã hội và môi trường có nghĩa là chúng ta có nhiều cơ hội hơn để ảnh hưởng đến thời điểm và cách thức mà những thay đổi quan trọng nhất này xảy ra, bao gồm cả việc quản lý các công nghệ có thể khóa chặt những giá trị tồi tệ hoặc đe dọa sự tồn vong của chúng ta. Sự thống nhất của nền văn minh hiện tại có nghĩa là các nhóm nhỏ có sức mạnh để ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới. Những ý tưởng mới không còn bị giới hạn trong một lục địa, và chúng có thể lan truyền khắp toàn cầu trong vài phút thay vì hàng thế kỷ.

Hơn nữa, việc những thay đổi này chỉ mới diễn ra gần đây có nghĩa là chúng ta đang ở trong một trạng thái mất cân bằng: xã hội chưa ổn định trong một trạng thái bền vững, và chúng ta có thể ảnh hưởng đến việc chúng ta sẽ đi đến trạng thái bền vững nào. Hãy tưởng tượng nền văn minh như một quả cầu khổng lồ đang lăn nhanh trên một địa hình gồ ghề. Theo thời gian, nó sẽ mất đà và chậm lại, rồi dừng chân dưới đáy một thung lũng hay vực sâu nào đó. Khi quả cầu vẫn còn đang chuyển động, chỉ một cú đẩy nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến hướng lăn và nơi nó sẽ dừng lại.

Bài tiếp theo:

Tôi thấy chủ nghĩa dài hạn khó thực hiện thế nào và động lực giúp tôi duy trì nó

Bài viết này nằm trong Cẩm nang thiện nguyện hiệu quả - một chuỗi bài viết giới thiệu đến bạn một số công cụ tư duy cốt lõi đằng sau thiện nguyện hiệu quả, chia sẻ một số luận điểm về những vấn đề toàn cầu cấp bách nhất, đồng thời giúp bạn suy ngẫm về cách bạn có thể đóng góp cá nhân.

Xem thêm về cẩm nang tại đây.

Nên làm gì tiếp theo?

Nếu bạn quan tâm đến việc tìm hiểu cách làm nhiều điều tốt hơn, đây là một số bước tiếp theo bạn có thể thực hiện.

Thắc mắc thường gặp

Phản biện thường gặp