Những người trong tương lai cũng quan trọng. Sẽ có rất nhiều người sống trong tương lai. Và chúng ta có thể làm cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Đây chính là lập luận ngắn gọn về chủ nghĩa dài hạn (longtermism). Các tiền đề rất đơn giản, và tôi không nghĩ chúng có gì đặc biệt gây tranh cãi. Tuy nhiên, việc xem xét chúng một cách nghiêm túc sẽ kéo theo một cuộc cách mạng về đạo đức — một cuộc cách mạng có hệ quả sâu rộng, làm thay đổi cách các nhà hoạt động, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách suy nghĩ và hành động, và chúng ta cũng nên như thế.
Những người tương lai cũng quan trọng, nhưng chúng ta hiếm khi đoái hoài đến họ. Họ không thể bỏ phiếu, vận động hành lang hay tranh cử, vì vậy các chính trị gia có rất ít động lực để nghĩ về họ. Họ không thể thương lượng hay giao dịch với chúng ta, vì vậy họ gần như không có sự hiện diện trên thị trường. Và họ không thể cất lên tiếng nói của mình một cách trực tiếp: họ không thể tweet, viết báo, hay xuống đường tuần hành. Họ hoàn toàn không có tiếng nói, không có quyền lực.
Các phong trào xã hội trước đây, như phong trào dân quyền và quyền bầu cử của phụ nữ, thường đấu tranh để mang lại sự công nhận và tầm ảnh hưởng lớn hơn cho những thành viên yếu thế trong xã hội. Tôi xem chủ nghĩa dài hạn chính là sự nối dài của những lý tưởng cao đẹp đó. Dù không thể trao cho những người tương lai quyền lực chính trị thực sự, chúng ta ít nhất có thể dành cho họ sự quan tâm của mình. Bằng cách thoát khỏi ách thống trị của hiện tại đối với tương lai, chúng ta có thể hành động như những người được ủy thác trách nhiệm — giúp kiến tạo một thế giới hưng thịnh cho các thế hệ mai sau. Điều này quan trọng hơn tất cả mọi thứ. Hãy để tôi giải thích tại sao.
Quan điểm cho rằng những người trong tương lai cũng quan trọng là một điều hết sức hiển nhiên. Xét cho cùng, họ cũng là con người. Họ sẽ tồn tại. Họ sẽ có những hy vọng, niềm vui, nỗi đau và nuối tiếc, giống như tất cả chúng ta. Chỉ là họ chưa tồn tại mà thôi.
Để thấy điều này trực quan đến mức nào, hãy giả sử khi đi dạo, tôi làm rơi một chai thủy tinh trên đường và nó vỡ tan. Và giả sử nếu tôi không dọn dẹp, rồi một đứa trẻ sẽ bị những mảnh vỡ đó cứa vào. Khi quyết định có nên dọn dẹp hay không, liệu thời điểm đứa trẻ bị thương có quan trọng không? Tôi có nên bận tâm việc đó sẽ xảy ra sau một tuần, một thập kỷ, hay một thế kỷ nữa không? Không. Tác hại vẫn là tác hại, bất kể khi nào nó xảy ra.
Giả như dịch bệnh sắp lan tới thị trấn và giết chết hàng ngàn người. Bạn có thể ngăn chặn nó. Trước khi hành động, bạn có cần biết khi nào dịch sẽ bùng phát không? Liệu điều đó có quan trọng không? Không. Nỗi đau và cái chết đang chực chờ cần được quan tâm bằng mọi giá.
Điều tương tự cũng đúng với những điều tốt đẹp. Hãy nghĩ về một điều bạn yêu thích trong cuộc sống của mình; có thể là âm nhạc hay thể thao. Và giờ hãy tưởng tượng một người khác cũng yêu một điều gì đó trong cuộc sống của họ nhiều như bạn. Liệu giá trị niềm vui của họ có biến mất nếu họ sống trong tương lai không? Giả sử bạn có thể tặng họ vé xem ban nhạc họ yêu thích hoặc đội bóng họ hâm mộ. Để quyết định có nên tặng hay không, bạn có cần biết đến ngày đưa vé?
Hãy tưởng tượng những người trong tương lai sẽ nghĩ gì, khi họ nhìn lại chúng ta đang tranh luận những câu hỏi như vậy. Họ sẽ thấy một số người trong chúng ta lập luận rằng những thế hệ sau không quan trọng. Nhưng họ nhìn xuống đôi tay mình; họ nhìn quanh cuộc sống của mình. Có gì khác biệt đâu? Có gì kém thực tế đâu? Phe nào trong cuộc tranh luận có vẻ sáng suốt và rành mạch hơn? Phe nào có vẻ thiển cận và cục bộ hơn?
Khoảng cách về thời gian cũng giống như khoảng cách về không gian. Mọi người vẫn quan trọng dù họ sống cách ta hàng ngàn cây số. Tương tự, họ vẫn quan trọng dù họ sống cách ta hàng ngàn năm sau. Trong cả hai trường hợp, thật dễ để nhầm lẫn khoảng cách với sự ảo ảnh, để xem giới hạn của tầm nhìn là giới hạn của thế giới. Nhưng cũng như thế giới không dừng lại ở ngưỡng cửa hay biên giới quốc gia, nó cũng không dừng lại ở thế hệ của chúng ta, hay thế hệ kế tiếp.
Những ý tưởng này là lẽ thường tình. Có một câu ngạn ngữ nổi tiếng rằng: “Một xã hội trở nên vĩ đại khi những người già trồng cây mà họ biết mình sẽ không bao giờ được ngồi dưới bóng mát của nó.” (người dịch: nhìn từ góc độ người VN và người tiếp nhận thì chúng tôi thấy có câu “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”). Khi xử lý chất thải phóng xạ, chúng ta không nói: “Ai quan tâm nếu thứ này đầu độc con người của nhiều thế kỷ sau?” Tương tự, rất ít người trong chúng ta quan tâm đến biến đổi khí hậu hay ô nhiễm chỉ vì lợi ích của những người đang sống hôm nay. Chúng ta xây dựng bảo tàng, công viên, những cây cầu với hy vọng chúng sẽ trường tồn qua nhiều thế hệ; chúng ta đầu tư vào trường học và các dự án khoa học dài hạn; chúng ta bảo tồn những bức tranh, những truyền thống, những ngôn ngữ; chúng ta bảo vệ những danh lam thắng cảnh. Trong nhiều trường hợp, chúng ta không vạch ra ranh giới rõ ràng giữa mối quan tâm cho hiện tại và cho tương lai khi cả hai đều có vai trò quan trọng.
Sự quan tâm đến các thế hệ tương lai là lẽ thường trong nhiều truyền thống tư tưởng khác nhau. Gayanashagowa, hiến pháp truyền miệng hàng thế kỷ của Liên minh Iroquois, có một tuyên bố đặc biệt rõ ràng. Nó kêu gọi các nhà lãnh đạo của Liên minh “phải luôn đặt tầm nhìn không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho cả các thế hệ sắp tới.” Oren Lyons, một người giữ gìn đức tin của các quốc gia Onondaga và Seneca thuộc Liên minh Iroquois, diễn đạt điều này theo nguyên tắc “thế hệ thứ bảy”, rằng: “Chúng tôi… đưa ra mọi quyết định dựa trên sự liên quan của nó đến phúc lợi và sự an lạc (welfare and well-being) của thế hệ thứ bảy trong tương lai… Chúng tôi luôn cân nhắc: liệu điều này có mang lại lợi ích cho thế hệ thứ bảy không?”
Tuy nhiên, ngay cả khi bạn đồng ý rằng những người tương lai cũng quan trọng, vẫn còn câu hỏi về việc nên đặt lợi ích của họ đến mức nào. Có lý do nào để chúng ta quan tâm đến những người đang sống hôm nay nhiều hơn không?
Có hai lý do nổi bật. Thứ nhất là sự thiên vị dành cho người thân. Chúng ta thường có những mối quan hệ đặc biệt mạnh mẽ hơn với những người ở hiện tại, như gia đình, bạn bè, đồng bào, hơn là với những người trong tương lai. Lẽ thường cho phép và thậm chí khuyến khích bạn dành sự ưu tiên hơn cho những người thân yêu và gần gũi của mình.
Lý do thứ hai là sự tương hỗ. Trừ khi bạn sống như một ẩn sĩ nơi hoang dã, hành động của vô số người như giáo viên, người bán hàng, kỹ sư, và mọi người nộp thuế khác — đều trực tiếp mang lại lợi ích cho bạn trong suốt cuộc đời. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu ai đó đã giúp mình, mình có lý do để đền đáp họ. Nhưng những người tương lai không mang lại lợi ích cho bạn theo cách mà những người đương thời làm.
Các mối quan hệ quyến thuộc và sự tương hỗ là quan trọng. Nhưng chúng không làm thay đổi kết luận cốt lõi trong lập luận của tôi. Tôi không cho rằng lợi ích của người hiện tại và người tương lai lúc nào cũng nên được cân ngang hàng. Tôi chỉ cho rằng những người tương lai cũng quan trọng một cách đáng kể. Cũng như việc yêu thương con cái của chúng ta hơn không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của người lạ, việc quan tâm đến những người đương thời nhiều hơn không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của con cháu chúng ta.
Để minh họa, giả sử một ngày nào đó chúng ta phát hiện ra Atlantis, một nền văn minh lớn dưới đáy biển. Chúng ta nhận ra rằng nhiều hoạt động của mình ảnh hưởng đến Atlantis. Khi chúng ta đổ rác ra đại dương, chúng ta đầu độc công dân của họ; khi một con tàu chìm, họ tái chế nó để lấy phế liệu. Chúng ta không có mối quan hệ đặc biệt nào với người dân Atlantis, cũng không nợ họ sự đền đáp nào. Nhưng chúng ta vẫn nên xem xét một cách nghiêm túc cách hành động của mình ảnh hưởng đến họ.
Tương lai cũng giống như Atlantis. Đó cũng là một xứ sở rộng lớn, chưa được khám phá; và liệu xứ sở đó có hưng thịnh hay suy tàn phụ thuộc, một phần đáng kể, vào những gì chúng ta làm hôm nay.
Quan điểm cho rằng những người trong tương lai cũng quan trọng là một điều hiển nhiên. Tương tự, quan điểm rằng những con số có ý nghĩa về mặt đạo đức cũng là một điều hiển nhiên. Nếu bạn có thể cứu một người hoặc mười người khỏi một đám cháy, thì nếu mọi yếu tố khác là như nhau, bạn nên cứu mười người. Nếu bạn có thể chữa bệnh cho một trăm người hoặc một nghìn người, bạn nên chữa cho một nghìn người. Điều này rất quan trọng, bởi vì số lượng người trong tương lai có thể là một con số khổng lồ.
Để thấy rõ điều này, hãy cùng nhìn lại chặng đường lịch sử của nhân loại. Các thành viên của chi Homo đã có mặt trên Trái đất hơn 2,5 triệu năm. Loài của chúng ta, Homo sapiens, đã tiến hóa khoảng 300.000 năm trước. Nông nghiệp chỉ mới bắt đầu từ 12.000 năm trước, những thành phố đầu tiên được hình thành cách đây 6.000 năm, kỷ nguyên công nghiệp bắt đầu khoảng 250 năm trước, và tất cả những thay đổi diễn ra kể từ đó — từ xe ngựa kéo đến du hành vũ trụ, từ chữa bệnh bằng đỉa đến cấy ghép tim, từ máy tính cơ đến siêu máy tính — tất cả chỉ diễn ra trong vòng ba đời người.


Loài người chúng ta sẽ tồn tại được bao lâu? Tất nhiên, chúng ta không biết. Nhưng chúng ta có thể đưa ra những ước tính có cơ sở, tính đến sự không chắc chắn của mình, bao gồm cả sự không chắc chắn về việc liệu chúng ta có tự hủy diệt bản thân hay không.
Để minh họa quy mô tiềm năng của tương lai, giả sử rằng chúng ta chỉ tồn tại trong thời gian của các loài động vật có vú điển hình, tức là khoảng một triệu năm. Cũng giả sử rằng dân số của chúng ta tiếp tục ở mức hiện tại. Trong trường hợp đó, sẽ có 80 nghìn tỷ người sinh ra; số người trong tương lai sẽ gấp 10.000 lần số người hiện tại.
Tất nhiên, chúng ta phải xem xét tất cả các khả năng có thể xảy ra trong tương lai. Tuổi thọ của loài chúng ta có thể ngắn hơn nhiều so với các loài động vật có vú khác nếu chúng ta tự hủy diệt bản thân. Nhưng nó cũng có thể dài hơn nhiều. Khác với các loài động vật có vú khác, chúng ta có các công cụ phức tạp giúp thích nghi với môi trường đa dạng; khả năng suy luận trừu tượng, cho phép chúng ta lập kế hoạch phức tạp, dài hạn để ứng phó với hoàn cảnh mới; và một văn hóa chung cho phép chúng ta hoạt động trong các nhóm hàng triệu người. Những yếu tố này giúp chúng ta tránh được các mối đe dọa tuyệt chủng mà các loài động vật có vú khác không thể.
Điều này có tầm ảnh hưởng bất đối xứng đến tuổi thọ của loài người. Tương lai của nền văn minh có thể rất ngắn, kết thúc trong vài thế kỷ. Nhưng cũng có thể cực kỳ dài. Trái đất sẽ vẫn có thể sinh sống trong hàng trăm triệu năm. Nếu chúng ta sống sót được lâu như vậy, với dân số mỗi thế kỷ như hiện nay, sẽ có một triệu người trong tương lai cho mỗi người đang sống ngày nay. Và nếu nhân loại cuối cùng chinh phục vũ trụ, quy mô thời gian sẽ trở nên thực sự vũ trụ. Mặt Trời sẽ tiếp tục cháy trong năm tỷ năm; các cụm sao truyền thống cuối cùng sẽ hình thành sau hơn một nghìn tỷ năm; và do dòng chảy nhỏ nhưng liên tục của các va chạm giữa các sao lùn nâu, một số sao vẫn sẽ sáng rực sau một triệu nghìn tỷ năm nữa.

Khả năng thực sự rằng nền văn minh sẽ tồn tại trong một thời gian dài như vậy mang lại cho nhân loại một tuổi thọ kỳ vọng (life expectancy) khổng lồ. Chỉ cần 10% cơ hội sống sót qua năm trăm triệu năm cho đến khi Trái đất không còn là nơi có thể sinh sống, chúng ta đã có một tuổi thọ kỳ vọng hơn năm mươi triệu năm. Chỉ cần 1% cơ hội sống sót cho đến khi những ngôi sao cuối cùng trong vũ trụ lụi tàn, chúng ta đã có một tuổi thọ kỳ vọng hơn mười tỷ năm.
Cuối cùng, chúng ta không nên chỉ quan tâm đến tuổi thọ của nhân loại, mà còn cả việc sẽ có bao nhiêu người. Vì vậy, chúng ta phải đặt câu hỏi: Trong tương lai, sẽ có bao nhiêu người cùng tồn tại tại một thời điểm?
Dân số tương lai có thể nhỏ hơn nhiều hoặc lớn hơn nhiều so với ngày nay. Nhưng nếu nhỏ hơn, nó chỉ có thể giảm đi tối đa là tám tỷ người — tức quy mô dân số hiện tại. Ngược lại, nếu lớn hơn, nó có thể lớn hơn rất nhiều. Dân số toàn cầu hiện tại đã đông hơn một nghìn lần so với thời kỳ săn bắt hái lượm. Nếu mật độ dân số toàn cầu tăng lên bằng của Hà Lan — một quốc gia xuất khẩu ròng nông sản — sẽ có bảy mươi tỷ người cùng chung sống. Điều này nghe có vẻ viển vông, nhưng con số tám tỷ người cũng từng là một điều viển vông đối với một người săn bắt hái lượm thời tiền sử hay một nông dân thời kỳ đầu.
Quy mô dân số có thể tăng vọt một lần nữa nếu một ngày nào đó chúng ta vươn tới các vì sao. Mặt trời của chúng ta tạo ra một lượng năng lượng lớn hơn hàng tỷ lần so với lượng chiếu xuống Trái đất, có hàng chục tỷ ngôi sao khác trong dải Ngân hà của chúng ta, và hàng tỷ thiên hà khác trong tầm với. Do đó, số lượng người trong tương lai xa có thể đông hơn rất nhiều so với ngày nay.
Chính xác là bao nhiêu? Việc ước tính chính xác là bất khả thi và cũng không cần thiết. Theo mọi cách tính hợp lý, con số đó là vô cùng lớn.
Để dễ hình dung, hãy nhìn vào biểu đồ sau. Mỗi hình nhân đại diện cho mười tỷ người. Cho đến nay, có khoảng một trăm tỷ người đã từng sống trên đời. Những người trong quá khứ này được biểu thị bằng mười hình nhân. Thế hệ hiện tại có gần tám tỷ người, tôi sẽ làm tròn thành mười tỷ và biểu thị bằng một hình nhân duy nhất:

Tiếp theo, chúng ta sẽ hình dung về tương lai. Hãy thử xem xét một kịch bản: chúng ta duy trì mức dân số hiện tại và sống trên Trái đất trong năm trăm triệu năm nữa. Dưới đây là tất cả những người trong tương lai: Khi được thể hiện một cách trực quan, chúng ta bắt đầu thấy được có bao nhiêu sinh mạng đang ở trong thế rủi ro. Nhưng tôi đã phải cắt ngắn biểu đồ này. Phiên bản đầy đủ của nó sẽ cần đến hai mươi nghìn trang giấy — dày hơn cuốn sách này cả trăm lần. Mỗi hình nhân sẽ đại diện cho mười tỷ sinh mạng, và mỗi sinh mạng đó có thể hưng thịnh hoặc khốn cùng.





Trước đó, tôi đã ví nhân loại ngày nay như một thiếu niên thiếu thận trọng và liều lĩnh: phần lớn cuộc đời vẫn còn ở phía trước, và những quyết định ảnh hưởng đến phần còn lại của cuộc đời đó có tầm quan trọng khổng lồ. Nhưng thực ra, phép ẩn dụ này vẫn chưa nói hết tầm vóc của vấn đề. Một thiếu niên biết gần đúng mình sẽ sống được bao lâu. Nhưng chúng ta lại không biết tuổi thọ của nhân loại. Chúng ta giống một thiếu nữ hơn, người mà, theo những gì cô nàng biết, có thể vô tình tự kết liễu đời mình trong vài tháng tới, nhưng cũng có thể sẽ sống cả một nghìn năm. Nếu ở trong hoàn cảnh đó, liệu bạn có suy nghĩ nghiêm túc về một cuộc đời dài lâu có thể đang chờ đợi phía trước, hay bạn sẽ phớt lờ nó?
Sự rộng lớn của tương lai có thể gây choáng ngợp. Thông thường, tư duy “dài hạn” của chúng ta chỉ gói gọn trong vài năm hay vài thập kỷ là cùng. Nhưng ngay cả với một ước tính khiêm tốn về tuổi thọ của nhân loại, thì cách tư duy đó cũng chẳng khác nào một thiếu niên tin rằng nghĩ dài hạn là nghĩ cho ngày mai, chứ không phải ngày mốt.
Bất chấp những suy nghĩ về tương lai có thể choáng ngợp đến đâu, nếu chúng ta thực sự quan tâm đến lợi ích của các thế hệ tương lai — nếu chúng ta thừa nhận rằng họ là những con người thật, cũng có khả năng hạnh phúc và đau khổ như chúng ta — thì chúng ta có nghĩa vụ phải cân nhắc xem mình sẽ tác động đến thế giới mà họ sinh sống như thế nào.
Tương lai có thể rộng mở. Nó có thể rất tốt đẹp—hoặc rất tệ.
Để cảm nhận được thế giới có thể tốt đẹp đến mức nào, chúng ta có thể nhìn vào những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được trong vài thế kỷ qua. Hai trăm năm trước, tuổi thọ trung bình chưa đến ba mươi; ngày nay, con số đó là bảy mươi ba. Khi ấy, hơn 80% dân số thế giới sống trong cảnh nghèo cùng cực; bây giờ, con số đó chưa đến 10%. Khi ấy, chỉ khoảng 10% người trưởng thành biết đọc; ngày nay, hơn 85% có thể đọc.
Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để vừa thúc đẩy những xu hướng tích cực này, vừa thay đổi chiều hướng của những xu hướng tiêu cực, như sự gia tăng đột biến của khí thải carbon dioxide hay số lượng động vật phải chịu đau khổ trong các trang trại công nghiệp. Chúng ta có thể xây dựng một thế giới nơi mọi người đều được sống như những người hạnh phúc nhất ở các quốc gia thịnh vượng nhất ngày nay, một thế giới không còn đói nghèo, không ai thiếu thốn chăm sóc y tế, và trong chừng mực có thể, mọi người đều được tự do sống theo cách mình muốn.
Nhưng chúng ta thậm chí có thể làm tốt hơn thế nữa—tốt hơn rất nhiều. Những gì tốt nhất chúng ta từng thấy cho đến nay chỉ là một thước đo nghèo nàn cho những gì là khả thi. Để mường tượng được phần nào điều này, hãy thử hình dung cuộc sống của một người đàn ông giàu có ở Anh vào năm 1700—một người được tiếp cận với thực phẩm, y tế và những thứ xa hoa bậc nhất thời đó. Dù có tất cả những lợi thế ấy, ông ta vẫn có thể dễ dàng chết vì bệnh đậu mùa, giang mai hay sốt phát ban. Nếu cần phẫu thuật hay bị đau răng, việc điều trị sẽ đau đớn đến kinh hoàng và có nguy cơ nhiễm trùng rất cao. Nếu sống ở London, không khí ông ta hít thở sẽ ô nhiễm gấp mười bảy lần so với ngày nay. Việc đi lại ngay trong nước Anh cũng có thể mất hàng tuần, và phần lớn thế giới hoàn toàn nằm ngoài tầm với của ông. Nếu ông ta chỉ tưởng tượng ra một tương lai nơi hầu hết mọi người đều giàu có như mình, ông ta đã không thể nào lường trước được vô số những điều đã cải thiện cuộc sống của chúng ta, như điện, thuốc gây mê, thuốc kháng sinh và các phương tiện đi lại hiện đại.
Không chỉ công nghệ đã cải thiện cuộc sống con người; sự thay đổi về mặt đạo đức cũng đã làm được điều đó. Năm 1700, phụ nữ không thể vào đại học, và phong trào nữ quyền chưa hề tồn tại. Nếu người đàn ông giàu có đó là người đồng tính, ông không thể yêu một cách công khai; quan hệ đồng giới nam có thể bị xử tử. Vào cuối những năm 1700, cứ bốn người trên thế giới thì có ba người là nạn nhân của một hình thức lao động cưỡng bức nào đó; ngày nay con số đó chưa đến 1%. Năm 1700, không ai được sống trong một nền dân chủ. Ngày nay, hơn một nửa thế giới có được điều đó.
Phần lớn những tiến bộ chúng ta đạt được từ năm 1700 là những điều rất khó để người đương thời có thể lường trước. Và đó chỉ là khoảng cách ba thế kỷ. Nhân loại có thể tồn tại hàng triệu thế kỷ chỉ riêng trên Trái đất. Ở một quy mô như vậy, nếu chúng ta chỉ neo giữ trí tưởng tượng của mình về tiềm năng của nhân loại vào một phiên bản vá víu của thế giới hiện tại, chúng ta có nguy cơ đánh giá thấp một cách trầm trọng về việc cuộc sống trong tương lai có thể tốt đẹp đến nhường nào.
Hãy nghĩ về những khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cuộc đời bạn—những khoảnh khắc đầy niềm vui, vẻ đẹp và tràn năng lượng, như khi yêu chẳng hạn, hay khi đạt được một mục tiêu để đời, hay khi có một ý tưởng sáng tạo chợt lóe. Những khoảnh khắc này là bằng chứng cho những gì là khả thi: chúng ta biết rằng cuộc sống có thể ít nhất là tốt đẹp như thế. Nhưng chúng cũng chỉ cho ta một hướng đi mà cuộc đời có thể tiến tới, dẫn đến một nơi ta chưa từng đặt chân đến. Nếu những ngày đẹp nhất của tôi có thể tuyệt vời hơn hàng trăm lần so với cuộc sống thường ngày đều đều, tẻ nhạt, thì có lẽ những ngày đẹp nhất của những người trong tương lai cũng có thể tuyệt vời hơn hàng trăm lần nữa.
Tôi không nói rằng một tương lai huy hoàng là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Về mặt từ nguyên, “utopia” có nghĩa là “không đâu cả”, và quả thực con đường từ đây đến một trạng thái tương lai lý tưởng nào đó rất mong manh. Nhưng một tương lai huy hoàng cũng không chỉ là một ảo mộng. Một từ đúng hơn sẽ là “eutopia,” có nghĩa là “miền đất tốt lành”—một điều đáng để phấn đấu. Đó là một tương lai mà, với đủ sự kiên nhẫn và khôn ngoan, con cháu chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng—nếu chúng ta dọn đường cho họ.
Và dù tương lai có thể huy hoàng, nó cũng có thể trở nên tồi tệ. Để thấy điều này, hãy nhìn vào những xu hướng tiêu cực trong quá khứ và tưởng tượng một tương lai nơi chúng trở thành những thế lực thống trị. Hãy nghĩ đến việc chế độ nô lệ đã gần như biến mất khỏi Pháp và Anh vào cuối thế kỷ 12, nhưng trong thời kỳ thuộc địa, chính những quốc gia đó lại trở thành những kẻ buôn bán nô lệ trên quy mô lớn. Hay việc giữa thế kỷ 20 đã chứng kiến các chế độ toàn trị trỗi dậy ngay từ chính các nền dân chủ. Hay việc chúng ta đã dùng các tiến bộ khoa học để tạo ra vũ khí hạt nhân và các trang trại công nghiệp.
Cũng như “miền đất địa đàng” (eutopia) là một khả năng có thật, thì “xã hội phản địa đàng địa” (dystopia) cũng vậy. Tương lai có thể là một nơi mà một chế độ toàn trị duy nhất kiểm soát cả thế giới, hoặc nơi chất lượng cuộc sống ngày nay chỉ còn là một ký ức xa xôi về một Thời đại Hoàng kim đã qua, hoặc nơi một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đã hủy diệt hoàn toàn nền văn minh. Tương lai sẽ huy hoàng hay tăm tối, một phần, phụ thuộc vào chúng ta.
Ngay cả khi bạn chấp nhận rằng tương lai rộng mở và quan trọng đến thế, bạn có thể vẫn hoài nghi về khả năng chúng ta có thể tác động tích cực đến nó. Và tôi đồng ý rằng việc xác định những hành động của chúng ta có tác động dài hạn thế nào cũng vô cùng khó khăn. Có rất nhiều yếu tố cần cân nhắc, và sự hiểu biết của chúng ta về chúng chỉ mới bắt đầu. Mục đích của tôi với cuốn sách này là để kích thích thêm các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này, chứ không phải để đưa ra bất kỳ kết luận cuối cùng nào về việc chúng ta nên làm gì. Nhưng tương lai quan trọng đến mức chúng ta ít nhất phải cố gắng tìm ra cách lèo lái nó đi theo một hướng tích cực. Và, ngay từ bây giờ, đã có một số điều chúng ta có thể khẳng định.
Nhìn về quá khứ, dù không có nhiều ví dụ về những người chủ đích nhắm đến các tác động dài hạn, chúng thực sự tồn tại, và một số đã thành công một cách đáng ngạc nhiên. Các nhà thơ là một ví dụ. Trong bài Sonnet số 18 của Shakespeare (“Ta có nên ví em với ngày hè?”), tác giả đã ghi dấu bằng nghệ thuật, ông đã lưu giữ hình ảnh chàng trai trẻ mà ông ngưỡng mộ cho muôn đời sau:
Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không tàn phai, .........
Khi em lớn lên cùng những vần thơ bất tử.
Chừng nào con người còn thở, mắt còn trông,
Thì thơ này còn sống, và trao sự sống cho em.
Bài Sonnet 18 được viết vào những năm 1590 nhưng là sự tiếp nối của một truyền thống đã có từ rất lâu trước đó. Năm 23 trước Công nguyên, nhà thơ La Mã Horace đã bắt đầu bài thơ cuối cùng trong tập Odes của mình với những dòng này:
Ta đã dựng nên một tượng đài bền hơn cả đồng thiếc, cao hơn cả kim tự tháp của các bậc đế vương, một tượng đài mà mưa tuôn xói mòn hay gió Bắc hung tàn cũng chẳng thể phá hủy, cũng như chuỗi năm tháng vô tận, hay dòng chảy của thời gian. Ta sẽ không chết hoàn toàn, một phần lớn của ta sẽ thoát khỏi tay Nữ thần Chết.
Những tuyên bố này nghe có vẻ khoa trương. Nhưng, rất có thể, những nỗ lực để bất tử của các nhà thơ này đã thành công. Các tác phẩm của họ đã tồn tại hàng trăm năm và thực tế ngày càng hưng thịnh theo thời gian: ngày nay có nhiều người đọc Shakespeare hơn cả thời của ông, và điều tương tự có lẽ cũng đúng với Horace. Và chừng nào mỗi thế hệ tương lai còn có người sẵn lòng trả một cái giá rất nhỏ để bảo tồn hay sao chép những bài thơ này, chúng sẽ tồn tại mãi mãi.
Các nhà văn khác cũng đã thành công trong việc nhắm đến những tác động rất dài hạn. Thucydides đã viết tác phẩm Lịch sử cuộc chiến Peloponnesian vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Nhiều người coi ông là nhà sử học phương Tây đầu tiên cố gắng mô tả các sự kiện một cách trung thực và phân tích nguyên nhân của chúng. Ông tin rằng mình đang mô tả những chân lý phổ quát, và đã chủ đích viết nên tác phẩm lịch sử của mình để nó có thể có ảnh hưởng sâu rộng đến tương lai:
Tuy nhiên, đối với tôi, chỉ cần những dòng chữ này của mình được xem là hữu ích bởi những ai muốn thấu hiểu rõ ràng các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và (với bản chất con người vốn là như vậy) sẽ, vào một lúc nào đó, lặp lại trong tương lai theo những cách gần như tương tự, là đã đủ rồi. Tác phẩm của tôi không phải là một bài viết được thiết kế để chiều theo thị hiếu của công chúng nhất thời, mà được tạo ra để trường tồn với thời gian.
Tác phẩm của Thucydides vẫn có ảnh hưởng to lớn cho đến ngày nay. Nó là tài liệu đọc bắt buộc tại các học viện quân sự West Point, Annapolis và Trường Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ. Cuốn sách nổi tiếng năm 2017 Destined for War (Định mệnh chiến tranh), của nhà khoa học chính trị Graham Allison, có phụ đề Liệu Mỹ và Trung Quốc có thoát khỏi Bẫy Thucydides không? Allison đã phân tích quan hệ Mỹ-Trung bằng chính những thuật ngữ mà Thucydides đã dùng cho Sparta và Athens. Theo những gì tôi biết, Thucydides là người đầu tiên trong lịch sử thành công trong việc chủ đích nhắm đến một tác động dài hạn.
Những ví dụ gần đây hơn đến từ các Nhà Lập quốc của Hoa Kỳ. Hiến pháp Hoa Kỳ đã gần 250 năm tuổi và gần như vẫn giữ nguyên trong suốt thời gian đó. Sự ra đời của nó có tầm quan trọng dài hạn to lớn, và nhiều Nhà Lập quốc đã nhận thức rõ điều này. John Adams, tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ, đã nhận xét: “Các thể chế được tạo ra ở Mỹ bây giờ sẽ không hoàn toàn mai một sau hàng ngàn năm. Do đó, việc chúng phải được bắt đầu một cách đúng đắn là điều tối quan trọng. Nếu chúng khởi sự sai lầm, chúng sẽ không bao giờ có thể quay lại con đường đúng đắn, trừ khi là do ngẫu nhiên.”
Tương tự, Benjamin Franklin nổi tiếng với niềm tin vào sự vững mạnh và trường tồn của Hoa Kỳ đến nỗi vào năm 1784, một nhà toán học người Pháp đã viết một bài châm biếm thân thiện về ông, gợi ý rằng nếu Franklin thực sự tin tưởng, ông nên đầu tư tiền của mình vào các dự án xã hội và để chúng chi trả sau nhiều thế kỷ, tận dụng lợi ích của lãi suất kép. Franklin cho rằng đó là một ý tưởng tuyệt vời, và vào năm 1790, ông đã đầu tư mỗi nơi 1.000 bảng Anh (khoảng 135.000 USD theo giá trị ngày nay) cho hai thành phố Boston và Philadelphia: ba phần tư số tiền sẽ được giải ngân sau một trăm năm, và phần còn lại sau hai trăm năm. Đến năm 1990, khi các quỹ cuối cùng được phân phát, khoản quyên góp đã tăng lên gần 5 triệu USD cho Boston và 2,3 triệu USD cho Philadelphia.
Chính các Nhà Lập quốc cũng bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng đã được phát triển trước họ gần hai nghìn năm. Quan điểm của họ về sự phân chia quyền lực đã được định hình bởi Locke và Montesquieu, những người lại học hỏi từ phân tích của Polybius về hệ thống quản trị La Mã từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Chúng ta cũng biết rằng một số Nhà Lập quốc đã quen thuộc với các tác phẩm của Polybius.
Những người trong chúng ta ở hiện tại không cần phải có tầm ảnh hưởng như Thucydides hay Franklin để có thể tác động một cách có thể lường trước đến tương lai dài hạn. Thực tế, chúng ta vẫn làm điều đó mọi lúc. Chúng ta lái xe. Chúng ta đi máy bay. Qua đó chúng ta thải ra khí nhà kính với những tác động vô cùng lâu dài. Các quá trình tự nhiên sẽ chỉ có thể đưa nồng độ carbon dioxide trở lại mức tiền công nghiệp sau hàng trăm nghìn năm. Đây là những quy mô thời gian thường chỉ được nhắc đến với chất thải hạt nhân phóng xạ. Tuy nhiên, với năng lượng hạt nhân, chúng ta cẩn thận lưu trữ và lên kế hoạch chôn lấp chất thải; còn với nhiên liệu hóa thạch, chúng ta lại thải chúng ra không khí một cách bừa bãi.
Trong một số trường hợp, các tác động địa vật lý của sự nóng lên này thậm chí còn trở nên khắc nghiệt hơn theo thời gian thay vì phai nhạt đi. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) dự báo rằng trong kịch bản phát thải trung bình-thấp, vốn được xem là có khả năng xảy ra nhất, mực nước biển sẽ tăng khoảng 0,75 mét vào cuối thế kỷ này. Nhưng nó sẽ tiếp tục tăng rất lâu sau năm 2100. Sau mười nghìn năm, mực nước biển sẽ cao hơn từ mười đến hai mươi mét so với ngày nay. Hà Nội, Thượng Hải, Kolkata, Tokyo, và New York khi đó đều sẽ nằm phần lớn dưới mực nước biển.
Biến đổi khí hậu cho thấy các hành động ngày nay có thể gây ra những hậu quả dài hạn như thế nào. Nhưng nó cũng nhấn mạnh rằng các hành động hướng đến tương lai không nhất thiết có nghĩa là phớt lờ lợi ích của những người đang sống hôm nay. Chúng ta có thể lèo lái tương lai một cách tích cực, đồng thời cải thiện cả hiện tại.
Việc chuyển sang năng lượng sạch mang lại những lợi ích to lớn cho sức khỏe con người ngay trong hiện tại. Việc đốt nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm không khí với các hạt bụi mịn gây ung thư phổi, bệnh tim và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Kết quả là, mỗi năm có khoảng 3,6 triệu người chết sớm. Ngay cả ở Liên minh châu Âu, một khu vực tương đối ít ô nhiễm so với toàn cầu, ô nhiễm không khí từ nhiên liệu hóa thạch cũng làm cho mỗi công dân trung bình mất đi một năm tuổi thọ.
Giải trừ carbon — tức là thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng các nguồn năng lượng sạch hơn — do đó mang lại những lợi ích sức khỏe to lớn và tức thời, bên cạnh các lợi ích khí hậu dài hạn. Một khi đã tính đến ô nhiễm không khí, việc nhanh chóng giải trừ carbon cho nền kinh tế thế giới là hoàn toàn xác đáng chỉ dựa trên lợi ích sức khỏe.
Do đó, giải trừ carbon là một giải pháp một mũi tên trúng nhiều đích, cải thiện cuộc sống cả trong dài hạn và ngắn hạn. Thực tế, việc thúc đẩy đổi mới trong năng lượng sạch — như năng lượng mặt trời, gió, hạt nhân thế hệ mới, và các nhiên liệu thay thế — cũng là một thắng lợi trên nhiều mặt trận khác. Bằng cách làm cho năng lượng rẻ hơn, nó cải thiện mức sống ở các nước nghèo. Bằng cách giúp giữ nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất, nó bảo vệ chúng ta khỏi nguy cơ sụp đổ không thể phục hồi mà tôi sẽ thảo luận ở Chương 6. Bằng cách thúc đẩy tiến bộ công nghệ, nó làm giảm nguy cơ trì trệ dài hạn mà tôi sẽ thảo luận ở Chương 7. Một giải pháp thắng-thắng-thắng-thắng-thắng.
Giải trừ carbon là một minh chứng cho ý tưởng của chủ nghĩa dài hạn. Đổi mới năng lượng sạch tốt một cách bền vững, và vẫn còn rất nhiều việc phải làm trong lĩnh vực đó, đến nỗi tôi xem nó như một hoạt động dài hạn nền tảng mà các hành động tiềm năng khác có thể được so sánh với. Nó đã đặt ra một tiêu chuẩn rất cao.

Nhưng đó không phải là cách duy nhất để tác động đến tương lai dài hạn. Phần còn lại của cuốn sách này sẽ cố gắng trình bày một cách có hệ thống về những cách chúng ta có thể ảnh hưởng tích cực đến tương lai lâu dài. Sách sẽ gợi ý rằng sự thay đổi về đạo đức, việc quản trị một cách khôn ngoan sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo, ngăn chặn các đại dịch nhân tạo, và phòng tránh sự trì trệ công nghệ đều là những lĩnh vực quan trọng không kém, và thường bị bỏ quên (neglected) rất nhiều.
Ý tưởng rằng chúng ta có thể tác động đến tương lai dài hạn, và rằng có quá nhiều thứ quan trọng đang ở thế rủi ro, nghe có vẻ quá hoang đường đến mức khó tin. Ban đầu, cá nhân tôi cũng cảm thấy như vậy.
Nhưng tôi cho rằng sự "hoang đường" của chủ nghĩa dài hạn không đến từ những tiền đề đạo đức nền tảng, mà đến từ chính sự thật rằng chúng ta đang sống trong một thời đại đặc biệt chưa từng có.
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của những thay đổi phi thường. Để thấy rõ điều này, hãy xem xét tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trong những thập kỷ gần đây đạt trung bình khoảng 3% mỗi năm. Đây là một con số chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Trong 290.000 năm đầu tiên tồn tại của nhân loại, tăng trưởng toàn cầu gần như bằng 0; trong thời đại nông nghiệp, con số đó tăng lên khoảng 0,1%, và rồi tăng tốc sau cuộc Cách mạng Công nghiệp. Chỉ trong một trăm năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới mới tăng trưởng với tốc độ trên 2% mỗi năm.
Nói một cách khác cho dễ hình dung: từ năm 10.000 trước Công nguyên trở đi, phải mất hàng trăm năm để nền kinh tế thế giới tăng gấp đôi quy mô. Lần tăng gấp đôi gần đây nhất chỉ mất mười chín năm. Và không chỉ tốc độ tăng trưởng kinh tế mới là điều bất thường trong lịch sử; điều tương tự cũng đúng với tốc độ sử dụng năng lượng, lượng khí thải carbon dioxide, sự thay đổi trong việc sử dụng đất, sự tiến bộ khoa học, và có thể cho là cả sự thay đổi về đạo đức.

Vậy chúng ta biết rằng kỷ nguyên hiện tại cực kỳ đặc biệt so với quá khứ. Nhưng nó cũng đặc biệt so với cả tương lai. Tốc độ thay đổi chóng mặt này không thể tiếp diễn mãi mãi, ngay cả khi chúng ta tách rời hoàn toàn tăng trưởng khỏi khí thải carbon và ngay cả khi trong tương lai chúng ta có vươn tới các vì sao. Để thấy điều này, hãy giả sử rằng tăng trưởng trong tương lai chậm lại một chút, chỉ còn 2% mỗi năm. Với tốc độ đó, trong mười nghìn năm, nền kinh tế thế giới sẽ lớn hơn 10⁸⁶ lần so với ngày nay — tức là, chúng ta sẽ tạo ra một trăm nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ lần nhiều của cải hơn hiện tại. Nhưng chỉ có chưa đến 10⁶⁷ nguyên tử trong vòng mười nghìn năm ánh sáng quanh Trái đất. Vì vậy, nếu tốc độ tăng trưởng hiện tại tiếp tục chỉ trong mười thiên niên kỷ nữa, thì lượng của cải tạo ra sẽ phải tương đương với mười triệu nghìn tỷ lần thế giới hiện tại của chúng ta cho mỗi một nguyên tử mà về nguyên tắc, chúng ta có thể tiếp cận. Dù không thể chắc chắn, điều này dường như là bất khả thi.
Nhân loại có thể tồn tại hàng triệu, thậm chí hàng tỷ năm nữa. Nhưng tốc độ thay đổi của thế giới hiện đại chỉ có thể tiếp diễn trong khoảng vài nghìn năm. Điều này có nghĩa là chúng ta đang sống trong một chương phi thường của lịch sử nhân loại. So với cả quá khứ và tương lai, mỗi thập kỷ chúng ta sống đều chứng kiến một số lượng thay đổi kinh tế và công nghệ đặc biệt lớn. Và một số thay đổi này — như sự ra đời của năng lượng hóa thạch, vũ khí hạt nhân, mầm bệnh nhân tạo, và trí tuệ nhân tạo tiên tiến — có tiềm năng tác động đến toàn bộ vận mệnh của tương lai.
Không chỉ tốc độ thay đổi chóng mặt làm cho thời đại này trở nên đặc biệt. Chúng ta còn được kết nối một cách khác thường. Trong hơn năm mươi nghìn năm, nhân loại bị chia cắt thành các nhóm riêng biệt; đơn giản là không có cách nào để người dân ở châu Phi, châu Âu, châu Á, hay Úc có thể liên lạc với nhau. Giữa năm 100 TCN và 150 SCN, Đế chế La Mã và nhà Hán mỗi bên chiếm tới 30% dân số thế giới, nhưng họ hầu như không biết gì về sự tồn tại của nhau. Ngay cả trong cùng một đế chế, một người cũng có khả năng rất hạn chế để liên lạc với người ở nơi xa.
Trong tương lai, nếu chúng ta vươn tới các vì sao, chúng ta sẽ lại một lần nữa bị chia cắt. Dải Ngân hà giống như một quần đảo, với những khoảng không bao la trống rỗng được điểm xuyết bởi những đốm ấm nhỏ li ti. Nếu Dải Ngân hà lớn bằng Trái đất, hệ mặt trời của chúng ta sẽ chỉ rộng mười centimet và hàng trăm mét sẽ ngăn cách chúng ta với những người hàng xóm. Từ đầu này đến đầu kia của dải Ngân hà, việc liên lạc nhanh nhất cũng mất một trăm nghìn năm; ngay cả giữa chúng ta và người hàng xóm gần nhất, việc liên lạc hai chiều cũng mất gần chín năm.
Thực tế, nếu nhân loại vươn đủ xa và tồn tại đủ lâu, việc một phần của nền văn minh liên lạc với phần khác cuối cùng sẽ trở thành bất khả thi. Vũ trụ được cấu thành từ hàng triệu cụm thiên hà. Cụm của chúng ta được gọi đơn giản là Nhóm Địa phương. Các thiên hà trong mỗi cụm đủ gần để lực hấp dẫn liên kết chúng lại với nhau mãi mãi. Nhưng, vì vũ trụ đang giãn nở, các cụm thiên hà cuối cùng sẽ bị xé khỏi nhau. Trong hơn 150 tỷ năm nữa, ngay cả ánh sáng cũng sẽ không thể đi từ cụm này đến cụm khác.
Sự đặc biệt của thời đại chúng ta mang lại một cơ hội lớn hơn bao giờ hết để tạo ra sự khác biệt. Rất ít người trong số những người đã, đang và sẽ sống có được quyền năng tác động tích cực đến tương lai nhiều như chúng ta. Sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, xã hội và môi trường có nghĩa là chúng ta có nhiều cơ hội hơn để ảnh hưởng đến thời điểm và cách thức mà những thay đổi quan trọng nhất này xảy ra, bao gồm cả việc quản lý các công nghệ có thể khóa chặt những giá trị tồi tệ hoặc đe dọa sự tồn vong của chúng ta. Sự thống nhất của nền văn minh hiện tại có nghĩa là các nhóm nhỏ có sức mạnh để ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới. Những ý tưởng mới không còn bị giới hạn trong một lục địa, và chúng có thể lan truyền khắp toàn cầu trong vài phút thay vì hàng thế kỷ.
Hơn nữa, việc những thay đổi này chỉ mới diễn ra gần đây có nghĩa là chúng ta đang ở trong một trạng thái mất cân bằng: xã hội chưa ổn định trong một trạng thái bền vững, và chúng ta có thể ảnh hưởng đến việc chúng ta sẽ đi đến trạng thái bền vững nào. Hãy tưởng tượng nền văn minh như một quả cầu khổng lồ đang lăn nhanh trên một địa hình gồ ghề. Theo thời gian, nó sẽ mất đà và chậm lại, rồi dừng chân dưới đáy một thung lũng hay vực sâu nào đó. Khi quả cầu vẫn còn đang chuyển động, chỉ một cú đẩy nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến hướng lăn và nơi nó sẽ dừng lại.
Nếu bạn quan tâm đến việc tìm hiểu cách làm nhiều điều tốt hơn, đây là một số bước tiếp theo bạn có thể thực hiện.
Thiện nguyện Hiệu quả là nỗ lực tìm kiếm những phương pháp giúp đỡ tốt nhất và áp dụng chúng vào thực tế.
Về cơ bản, Thiện nguyện Hiệu quả gồm hai phương diện: một là triết lý hướng đến việc tìm cách giúp đỡ hiệu quả nhất, và hai là một cộng đồng hành động, nơi mọi người cùng nhau áp dụng các kết quả nghiên cứu để khiến thế giới tốt đẹp hơ
Đọc thêm: Giới thiệu về thiện nguyện hiệu quả
Thiện nguyện hiệu quả tập trung vào việc cải thiện cuộc sống (bao gồm cả con người, động vật không phải người và những người trong các thế hệ tương lai). Hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng, nếu mọi yếu tố khác như nhau, việc giảm đau khổ và tăng cường phúc lợi là điều tốt. Cũng có thể có những thứ khác có giá trị - quảng bá nghệ thuật, hoặc bảo tồn môi trường tự nhiên - nhưng thiện nguyện hiệu quả chỉ xem xét những điều này trong chừng mực chúng cải thiện cuộc sống.
Có thể khó để so sánh một cách khách quan các lợi ích khác nhau mà những người khác nhau nhận được, hoặc bởi động vật thuộc các loài khác nhau, nhưng chúng tôi cố gắng trung lập nhất có thể khi làm điều đó.
Có thể bạn đồng tình với nguyên tắc chung của Thiện nguyện Hiệu quả (đó là tìm kiếm và ưu tiên những cách làm điều tốt hiệu quả nhất), nhưng lại cho rằng một vài đề xuất thực tế của phong trào là chưa đúng đắn, vì các biện pháp can thiệp, tổ chức từ thiện hay con đường sự nghiệp được gợi ý không mang lại hiệu quả thật sự.
Tinh thần của Thiện nguyện Hiệu quả là luôn cởi mở và sẵn sàng tiếp thu những lập luận thuyết phục cùng những bằng chứng vững chắc. Nếu bạn có lý do chính đáng để phản biện lại những phương pháp đang được xem là hiệu quả, hoặc có một đề xuất mới, bạn nên thảo luận với mọi người trong cộng đồng — đó chính là cách bạn giúp những người khác hành động hiệu quả hơn.
Đọc thêm:
Khác biệt giữa "không đồng ý về những gì hiệu quả" và "không đồng ý với Thiện nguyện Hiệu quả"
The difference between disagreeing about what’s effective and disagreeing with effective altruism
Có thể là vậy.
Mỗi chúng ta đều có rất nhiều cách để tạo ra sự thay đổi (qua các lĩnh vực hoạt động, con đường sự nghiệp, hay tổ chức từ thiện khác nhau). Sẽ có những hành động mang lại hiệu quả vượt trội hơn hẳn những hành động khác. Nếu bạn chưa thực sự chủ động tìm kiếm và lựa chọn phương án có tác động lớn nhất, thì thật khó để bạn có thể tình cờ chọn được cách làm tốt nhất. Bởi vì ngay cả khi bạn dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu, việc tìm ra lựa chọn tối ưu vốn đã không hề dễ dàng.
Vì vậy, dù bạn đang làm bất cứ điều gì, bạn vẫn có thể tạo ra nhiều giá trị tốt đẹp hơn nữa nếu bạn chịu khó đánh giá, so sánh một cách kỹ lưỡng các phương án khác nhau và chọn ra phương án tốt nhất.
Đọc thêm:
- Một số vấn đề hiệu quả hơn những vấn đề khác (https://80000hours.org/articles/effective-or-not/)
Không hẳn. Nhưng nếu các yếu tố khác là như nhau, một phương pháp có xác suất thành công cao hơn thì vẫn tốt hơn.Một số người có xu hướng ưu tiên các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc, và thường hoài nghi những cách làm còn lại. Họ cho rằng nếu không có sự kiểm nghiệm khắt khe, khả năng chúng ta dự đoán một hành động có hiệu quả hay không là rất hạn chế.
Ngược lại, những người khác lại tin rằng các cơ hội tạo ra tác động lớn nhất thường nằm ở những cách tiếp cận mang tính thử nghiệm hoặc có yếu tố suy đoán nhiều hơn, ví dụ như nghiên cứu khoa học hay vận động chính sách. Chẳng hạn, các tổ chức như Forethought thực hiện những nghiên cứu có thể trở nên vô cùng giá trị nếu vài năm tới thế giới diễn biến theo một hướng nhất định. Nếu không, nghiên cứu đó có thể chẳng giúp ích được gì. Dù xác suất thành công có thể rất nhỏ, tác động tiềm tàng của nó lại lớn đến mức được xem là có "giá trị kỳ vọng" (expected value) cao.
Trên cục diện toàn xã hội, chúng ta rõ ràng cần đến sự kết hợp của cả hai hướng tiếp cận này.
Ngay cả sau khi đã đóng thuế, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy mình còn đủ khả năng và mong muốn được giúp đỡ người khác.
Chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, chính phủ không thể hoặc sẽ không giải quyết được hết mọi vấn đề. Ví dụ, thế giới không hề có một loại thuế tái phân phối toàn cầu, dù cho bất bình đẳng giữa các quốc gia còn lớn hơn nhiều so với bất bình đẳng trong lòng mỗi nước.
Hơn nữa, Thiện nguyện Hiệu quả không ra lệnh cho bạn phải làm gì. Cộng đồng này ở đây để giúp đỡ thêm, và khi bạn đọc đến đây, tức là chính bạn có thể giống chúng tôi, đã quan tâm và quyết định rằng bạn muốn cống hiến nhiều hơn.
Không. Nhưng khả năng thành công cao hơn thì tốt hơn, nếu giữ nguyên các yếu tố khác.
Một số người có sở thích mạnh mẽ đối với các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc và hoài nghi về những phương pháp không có. Điều này là do họ nghĩ rằng chúng ta có khả năng rất hạn chế trong việc dự đoán hành động nào sẽ hiệu quả và hành động nào sẽ không nếu không có thử nghiệm nghiêm ngặt.
Nhưng những người khác lại nghĩ rằng các cơ hội có tác động cao nhất sẽ liên quan đến các phương pháp thử nghiệm hoặc 'mang tính suy đoán' nhiều hơn, chẳng hạn như nghiên cứu khoa học hoặc vận động chính trị. Ví dụ, Viện Tương lai Nhân loại (Future of Humanity Institute) nghiên cứu những cách hiệu quả nhất để giảm thiểu các rủi ro thảm họa có thể ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ nhân loại. Ngay cả khi chỉ có một cơ hội thành công nhỏ, tác động tiềm năng lớn đến mức nó có giá trị kỳ vọng cao.
Trong toàn xã hội, rõ ràng cần có sự kết hợp của cả hai.
Bạn không nên quyên góp đến mức đẩy bản thân vào hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng so với mặt bằng chung của thế giới, hầu hết chúng ta đều giàu hơn mình tưởng. Bạn có thể tính thử xem mình giàu đến mức nào so với phần còn lại của thế giới tại đây.Ví dụ, nếu bạn sống ở Mỹ và có thu nhập 30.000 USD/năm sau thuế, thu nhập của bạn vẫn cao gấp 9 lần mức thu nhập trung vị toàn cầu. Kể cả khi bạn quyên góp 10%, bạn vẫn có thu nhập cao gấp 8 lần mức trung vị đó (con số này đã được điều chỉnh theo sức mua tương đương). Điều này cũng đúng với người dân ở các quốc gia phát triển khác.
Ngoài ra, có rất nhiều cách để giúp đỡ mọi người mà không cần đến tiền bạc, chẳng hạn như lựa chọn một con đường sự nghiệp có sức ảnh hưởng lớn hơn.
Tìm hiểu thêm:
Xem vị trí của bạn trên thang thu nhập toàn cầu
Cách tạo tác động bằng sự nghiệp của bạn
Nhiều người cho rằng ý tưởng cố gắng tối đa hóa những điều tốt đẹp mình làm là một điều hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người lại không chủ động lựa chọn cách làm hiệu quả nhất có thể.Họ hoặc là không dành nhiều tâm sức để giúp đỡ người khác, hoặc chỉ chọn làm những gì mình thấy hứng thú, chứ không thực sự nghiên cứu và so sánh các phương án trước khi quyết định.
Dù vậy, nếu bạn thấy “thiện nguyện phải hiệu quả” là điều hiển nhiên, thì tuyệt vời! Rất có thể bạn sẽ thích tham gia cùng cộng đồng chúng tôi.
Có rất nhiều dự án không thể kể hết!
Bạn có thể tham khảo một vài ví dụ về các hoạt động của Thiện nguyện hiệu quả tại đây:
- Các tổ chức từ thiện về sức khỏe toàn cầu hiệu quả được giới thiệu bởi GiveWell.
- Các tổ chức từ thiện vì động vật hiệu quả được giới thiệu bởi Animal Charity Evaluators.
- Nhiều tổ chức đa dạng trong các lĩnh vực khác nhau đã nhận tài trợ từ Open Philanthropy.
- Các dự án được hỗ trợ bởi Các Quỹ Thiện nguyện hiệu quả (Effective Altruism Funds) trong bốn hạng mục chính: sức khỏe và phát triển toàn cầu, phúc lợi động vật, tương lai dài hạn, và "cơ sở hạ tầng" (hỗ trợ các dự án EA tiếp cận nguồn nhân tài, vốn và tri thức).
Hãy xem trang tác động.
Cộng đồng Thiện nguyện Hiệu quả được xây dựng bởi một tập thể thân thiện, đầy nhiệt huyết, thú vị từ khắp nơi trên thế giới. Tham gia cộng đồng mang lại nhiều lợi thế hơn so với khi hoạt động đơn độc.
Hợp tác: Bạn sẽ có cơ hội hợp tác với nhiều người tài năng trong các dự án của mình.
Tạo ảnh hưởng: Những góp ý và phê bình xây dựng của bạn có thể ảnh hưởng đến cộng đồng, giúp mọi người cùng áp dụng những phương pháp mà bạn cho là hiệu quả hơn.
Cộng hưởng nguồn lực: Bạn có thể chung tay góp sức cùng mọi người để thực hiện những nghiên cứu chung, giúp tất cả chúng ta tìm ra cách tạo ra tác động lớn hơn.
Học hỏi không ngừng: Bạn sẽ học hỏi được rất nhiều qua việc trò chuyện và trao đổi với các thành viên khác.
Nguồn động lực: Thật tuyệt vời và là nguồn động lực to lớn khi có những người bạn, cộng sự cùng chung lý tưởng.
Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể giúp đỡ người khác một cách hiệu quả mà không cần tham gia cộng đồng. Nếu bạn tự mình tạo ra những đóng góp giá trị cho một vấn đề quan trọng, điều đó đã rất tuyệt vời rồi! Ngay cả khi không tham gia, bạn vẫn có thể tham khảo việc đưa ra một cam kết cá nhân (take a pledge) để giữ vững quyết tâm giúp đỡ mọi người của mình.
Khám phá thêm những gì bạn có thể làm tại trang Hành động.
Trước đây, cộng đồng đã từng mắc sai lầm khi bị đồng nhất một cách quá chặt chẽ với chiến lược “kiếm tiền để cho đi” (earning to give).Nhiều người trong cộng đồng vẫn cho rằng đây là một chiến lược phù hợp với một số người, đặc biệt là những ai có năng lực và phù hợp với công việc lương cao.
Tuy nhiên, quyên góp không phải là cách duy nhất để tạo ra tác động lớn. Nhiều người thậm chí có thể đóng góp tốt hơn bằng cách dùng chính sự nghiệp của mình để giúp đỡ người khác trực tiếp. Và cũng có nhiều người trong cộng đồng kết hợp cả hai.
Chúng tôi vẫn tin rằng việc quyên góp cho đúng tổ chức từ thiện là một trong những cách bạn có thể tạo ra sự thay đổi lớn lao. Đây cũng là một phương pháp có nền tảng bằng chứng tương đối vững chắc, vì đã có sẵn các nghiên cứu trước đó để kế thừa và phát triển.
Tìm hiểu thêm:
Làm thế nào để tạo tác động qua sự nghiệp của bạn
Làm thế nào để giúp người khác qua việc quyên góp hiệu quả
Bạn có nên "kiếm tiền để cho đi"?
Một số ví dụ về lập luận phản biện:
Lisa Herzog trên openDemocracy
Jennifer Rubenstein trên Boston Review
Sam Earle and Rupert Read trên the Ecologist
Những người theo Chủ nghĩa vị lợi thường rất ủng hộ Thiện nguyện hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều người trong cộng đồng Thiện nguyện hiệu quả lại không phải là người theo Chủ nghĩa vị lợi; họ coi trọng những giá trị tự thân khác ngoài phúc lợi, chẳng hạn như quyền con người, sự tự do, bình đẳng, hay đức hạnh cá nhân. Trên thực tế, hầu hết chúng ta đều cân nhắc đến nhiều học thuyết đạo đức khác nhau khi hành động.
Yêu cầu đạo đức duy nhất của Thiện nguyện Hiệu quả là niềm tin rằng "giúp đỡ người khác là một việc quan trọng". Phong trào này không nhất thiết cho rằng làm mọi thứ có thể để giúp người khác là một nghĩa vụ bắt buộc, và cũng không cổ xúy việc vi phạm quyền của bất kỳ ai, ngay cả khi điều đó có thể mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
Tìm hiểu thêm: Phân biệt Thiện nguyện Hiệu quả và Chủ nghĩa vị lợi (The difference between effective altruism and utilitarianism)
Ví dụ về lập luận phản biện này:
- Bài viết của Iason Gabriel trên Boston Review
- Bài viết của Catherine Tumber trên Boston Review
Một số người cho rằng Thiện nguyện hiệu quả quá chú trọng vào các giải pháp chắp vá (band-aid solutions) như can thiệp y tế trực tiếp, mà không thực sự giải quyết các nguyên nhân mang tính hệ thống sâu xa hơn của các vấn đề toàn cầu. Nhiều người tin rằng chủ nghĩa tư bản không được kiểm soát, bất bình đẳng giàu nghèo, văn hóa tiêu dùng hay bùng nổ dân số góp phần đáng kể vào sự đau khổ trên thế giới, và mọi nỗ lực cải thiện thế giới mà không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ này đều là vô nghĩa hoặc sai lầm.
Đọc Đúng là Thiện nguyện hiệu quả quan tâm đến những phương pháp đã được "chứng thực" hiệu quả, chẳng hạn như nhân rộng các biện pháp can thiệp y tế đã qua kiểm nghiệm khắt khe. Đây là một tiêu chuẩn so sánh tốt để chúng ta đánh giá các cách tiếp cận khác mang tính suy đoán hơn. Tuy nhiên, khi kỹ năng đánh giá của cộng đồng ngày càng tốt hơn, nhiều người đang dần chuyển hướng sang các phương pháp liên quan đến thay đổi mang tính hệ thống.
Điều quan trọng cần nhớ là các quan điểm vẫn còn chia rẽ sâu sắc về việc liệu các hệ thống như toàn cầu hóa thương mại hay kinh tế thị trường là lợi bất cập hại hay ngược lại. Cũng không rõ liệu chúng ta có thể thay đổi các hệ thống này một cách triệt để mà không gây ra những hậu quả không mong muốn cực kỳ tồi tệ hay không.
Sự khác biệt về quan điểm này cũng được phản ánh ngay trong chính cộng đồng. Tinh thần của Thiện nguyện Hiệu quả là luôn cởi mở — chúng ta nên tránh việc trở nên giáo điều hoặc quá gắn chặt vào một hệ tư tưởng cụ thể nào. Mọi tuyên bố về cách tạo ra sự thay đổi đều cần được đánh giá dựa trên bằng chứng sẵn có. Nếu có một phương pháp nào đó có khả năng tạo ra một sự thay đổi tích cực ròng to lớn, chúng ta nên theo đuổi nó.
Đúng là nếu tất cả mọi người đều làm chính xác một việc và không bao giờ cập nhật quan điểm trước hoàn cảnh mới, thì điều đó sẽ gây ra vấn đề. Tuy nhiên, Thiện nguyện Hiệu quả đưa ra các khuyến nghị dựa trên những cơ hội tốt nhất hiện có, sau khi đã tính đến cả những việc mà người khác đang làm.
Khi ngày càng có nhiều người nắm bắt các cơ hội mà chúng tôi khuyến nghị, những lĩnh vực đó sẽ không còn bị xem nhẹ nữa, và giá trị của việc đầu tư thêm nguồn lực vào đó sẽ giảm dần. Khi đó, chúng tôi sẽ thay đổi khuyến nghị của mình để hướng đến các cơ hội khác. Kịch bản này hiện vẫn còn rất xa.
Tìm hiểu thêm: Giá trị của sự phối hợp - The value of co-ordination
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Gary Steuer Washington Post
Không. Nhưng khả năng thành công cao hơn thì tốt hơn, nếu giữ nguyên các yếu tố khác.
Một số người có sở thích mạnh mẽ đối với các phương pháp có bằng chứng thực nghiệm vững chắc và hoài nghi về những phương pháp không có. Điều này là do họ nghĩ rằng chúng ta có khả năng rất hạn chế trong việc dự đoán hành động nào sẽ hiệu quả và hành động nào sẽ không nếu không có thử nghiệm nghiêm ngặt.
Nhưng những người khác lại nghĩ rằng các cơ hội có tác động cao nhất sẽ liên quan đến các phương pháp thử nghiệm hoặc 'mang tính suy đoán' nhiều hơn, chẳng hạn như nghiên cứu khoa học hoặc vận động chính trị. Ví dụ, Viện Tương lai Nhân loại (Future of Humanity Institute) nghiên cứu những cách hiệu quả nhất để giảm thiểu các rủi ro thảm họa có thể ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ nhân loại. Ngay cả khi chỉ có một cơ hội thành công nhỏ, tác động tiềm năng lớn đến mức nó có giá trị kỳ vọng cao.
Trong toàn xã hội, rõ ràng cần có sự kết hợp của cả hai.
Bản chất của Thiện nguyện hiệu quả là xuất phát từ mong muốn làm điều tốt, nhưng dùng lý trí và bằng chứng để định hướng hành động, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Đúng là quá trình này đôi khi bao gồm việc tính toán mức độ hiệu quả của các hành động. Cũng đúng là chúng ta không phải lúc nào cũng quen biết những người mình đang giúp đỡ.
Hầu hết mọi người tìm đến Thiện nguyện hiệu quả vì họ có lòng trắc ẩn sâu sắc với mọi người, và tin rằng chúng ta nên giúp đỡ người khác bất kể có quen biết họ hay không. Và để giúp đỡ một cách hiệu quả nhất, việc tính toán đôi khi lại rất quan trọng.
Tìm hiểu thêm:
- Thiện nguyện hiệu quả: Lý tính chứ không vô cảm - Why effective altruism is calculating, but not cold
- Lòng trắc ẩn: Nguồn cảm hứng giúp đỡ những người xa lạ - How compassion can inspire us to help those we’ve never met
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
- Ken Berger & Robert Penna trên Stanford Social Innovation Review
- Emma Goldberg trên the New York Times
Một người nên cống hiến đến mức nào để cải thiện thế giới là một câu hỏi khó và rất riêng tư. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến Thiện nguyện hiệu quả thường quyên góp từ 10% thu nhập trở lên, và/hoặc chuyển hướng sự nghiệp (shift your career path) để tạo ra tác động xã hội lớn hơn đáng kể.
Với một số người, điều đó nghe có vẻ là một sự hy sinh lớn lao. Nhưng với nhiều người khác, việc dành cả đời để cải thiện thế giới lại mang đến cho họ một mục tiêu rõ ràng và một lẽ sống mạnh mẽ. Thiện nguyện hiệu quả cũng mang đến một cộng đồng toàn cầu thân thiện để cùng nhau hợp tác. Việc nỗ lực giúp đỡ người khác nhiều nhất có thể đôi khi lại có mục đích, viên mãn và thậm chí vui vẻ hơn bất kỳ lựa chọn nào khác.
Bản thân sự hy sinh không có gì đáng mong muốn cả. Bạn chắc chắn không cần phải từ bỏ những điều làm mình hạnh phúc hay bỏ bê các mối quan hệ cá nhân. Mục đích ở đây là để giúp đỡ người khác, chứ không phải để tự dằn vặt bản thân.
Tìm hiểu thêm: Tầm quan trọng của việc cho đi trong hoan hỉ - The importance of giving cheerfully
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Tom Farsides trên The Psychologist
Nhiều người đồng tình rằng chúng ta nên nỗ lực tạo ra sự thay đổi, nhưng lại cho rằng ta nên dành tiền bạc và thời gian cho cộng đồng ngay tại địa phương mình.
Tất nhiên, việc giúp đỡ những người xung quanh, hay thậm chí là chính bản thân mình, không có gì là sai cả. Tuy nhiên, cơ hội để giúp đỡ những người ở nơi xa thường lớn hơn rất nhiều so với cơ hội giúp đỡ những người ở gần, đặc biệt là khi bạn đang sống ở một quốc gia phát triển.
Ví dụ, để huấn luyện một chú chó dẫn đường cho người khiếm thị ở Mỹ, chi phí vào khoảng 40.000 USD. Trong khi đó, chi phí để chữa khỏi bệnh đau mắt hột (một nguyên nhân gây mù lòa) ở một quốc gia đang phát triển chỉ từ 25 đến 50 USD. Điều này có nghĩa là, cũng với 40.000 USD đó, chúng ta có thể chữa khỏi bệnh mù lòa cho khoảng 400 đến 2000 người.
Tìm hiểu thêm: Vì sao những người ở nơi xa vẫn xứng đáng nhận được sự giúp đỡ - Why people far away still deserve our help
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: David Brooks trên the New York Times
Đúng là có rất nhiều hoạt động từ thiện không hiệu quả, và có vô số ví dụ cho thấy các chương trình viện trợ và phát triển không mang lại tác động thực sự. Nhưng điều đó không có nghĩa là không tồn tại những tổ chức từ thiện đạt được các kết quả phi thường.
Thực tế, đó chính là lý do vì sao việc tìm ra những tổ chức tốt nhất, và dùng sự phán đoán sắc bén nhất của mình để xác định lĩnh vực nào đáng để chúng ta đầu tư thời gian và tiền bạc, lại quan trọng đến thế.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều cơ hội khác để tạo ra tác động lớn, bao gồm cả khởi nghiệp kinh doanh, hoạt động chính sách, chính trị, vận động và nghiên cứu.
Tìm hiểu thêm:
Viện trợ đúng mục" tiêu: Hiệu quả không cần bàn cãi - The lack of controversy over well-targeted aid
Những lầm tưởng về hoạt động viện trợ - Myths about aid
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Angus Deaton trên Boston Review
Có một lập luận hợp lý rằng nếu các cá nhân ngừng quyên góp cho những tổ chức từ thiện hiệu quả nhất, thì các tổ chức từ thiện lớn hơn sẽ vào cuộc để lấp đầy khoảng trống đó. Nếu vậy, rốt cuộc, tác động của các khoản quyên góp cá nhân chỉ là giúp các tổ chức lớn "rảnh tay" hơn về mặt tài chính.
Đây là một câu hỏi khó trả lời. Một mặt, có khả năng nếu không có các nhà hảo tâm cá nhân, những nhà hảo tâm lớn hơn sẽ gánh vác một phần trách nhiệm. Mặt khác, nếu các tổ chức từ thiện lớn và hiệu quả được "giải phóng" khỏi các gánh nặng tài chính đó, họ có thể dùng nguồn lực để tài trợ cho những biện pháp can thiệp hiệu quả khác, kể cả những lĩnh vực quan trọng nhưng ít được các cá nhân ủng hộ.
Tuy nhiên, có những tổ chức từ thiện rất hiệu quả và hoàn toàn có khả năng tiếp nhận cũng như sử dụng hiệu quả nhiều ngân sách hơn nữa. Ví dụ, vào năm 2018, tổ chức GiveDirectly đã trao hơn 30 triệu USD cho những người nghèo nhất thế giới, và họ có thể trao nhiều hơn thế nữa nếu nhận được thêm tài trợ. Việc quyên góp cho các tổ chức còn thiếu hụt ngân sách lớn ít có khả năng làm lấn át các nguồn tài trợ khác.
Thế giới sẽ cần hàng trăm tỷ đô la để tài trợ cho các biện pháp can thiệp hiệu quả trong 15 năm tới. Khoảng trống này không thể được lấp đầy hoàn toàn chỉ bởi các quỹ lớn. Chẳng hạn, quỹ tài trợ của Good Ventures và Quỹ Gates lần lượt chỉ vào khoảng 8 tỷ - $8bn và 41 tỷ - $41bn USD.
Như đã đề cập, nếu bạn hoài nghi về việc quyên góp từ thiện, vẫn còn nhiều cách khác để bạn áp dụng các nguyên tắc của Thiện nguyện hiệu quả nhằm tạo ra sự thay đổi, chẳng hạn như lựa chọn một lĩnh vực sự nghiệp có tác động lớn.
Một số ví dụ về lập luận phản biện này: Iason Gabriel
Nguy cơ chúng ta không thực sự thấu hiểu và giải quyết đúng nhu cầu của những người mình đang giúp đỡ là có thật, và chúng ta phải luôn cảnh giác với rủi ro này. Nếu không lắng nghe và thấu hiểu người thụ hưởng, chúng ta sẽ kém hiệu quả đi, điều này hoàn toàn trái ngược với mục tiêu của chúng ta.
Một số người ủng hộ tổ chức GiveDirectly vì họ trao tiền mặt trực tiếp cho người nghèo, để người dân hoàn toàn tự quyết định cách sử dụng số tiền đó. Cách làm này có thể trao quyền cho người dân tốt hơn là việc áp đặt các dịch vụ mà có thể cộng đồng địa phương không thực sự mong muốn.
Các tổ chức khác mà chúng tôi hỗ trợ thì cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, như tiêm chủng hay bổ sung vi chất. Đây là những điều tốt đẹp một cách rõ ràng đến mức gần như chắc chắn người thụ hưởng sẽ trân trọng chúng. Sức khỏe tốt hơn có thể tiếp thêm sức mạnh để người dân tự cải thiện hoàn cảnh của mình theo những cách mà chúng ta, với tư cách là người ngoài cuộc, không thể làm thay được.
Trong những trường hợp khác, chúng tôi có thể tiến hành các đánh giá tác động chi tiết để xem người thụ hưởng thực sự cảm thấy thế nào về dịch vụ mà chúng tôi cung cấp. Tất nhiên, các cuộc khảo sát này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, nhưng đó thường là điều tốt nhất chúng ta có thể làm.
Với những đối tượng không thể nói lên tiếng nói của mình như động vật hoặc các thế hệ tương lai, vấn đề này còn phức tạp hơn nữa. Khi đó, mọi người phải cố gắng hết sức để dự đoán xem họ/chúng sẽ muốn gì nếu có thể giao tiếp với chúng ta. Những trường hợp hiển nhiên có thể kể đến như: lợn không muốn bị nhốt cả đời trong 'chuồng ép heo nái' chật hẹp, hoặc các thế hệ tương lai không muốn kế thừa một hành tinh mà con người không còn có thể dễ dàng sinh sống.
Tìm hiểu thêm:
Làm sao để không trở thành "vị cứu tinh da trắng"? (Bài học về phức cảm cứu thế) - How not to be a “white in shining armour”
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
Angus Deaton trên Boston Review
Jennifer Rubenstein trên Boston Review
Cecelia Lynch trên CIHA
Một số hành động chúng tôi khuyến nghị là những hành động đã được kiểm nghiệm và chứng tỏ có tác động lớn. Nhưng cũng có nhiều hành động có vẻ đầy hứa hẹn mà không khả thi để đánh giá bằng các phương pháp thực nghiệm như thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã có bằng chứng chất lượng cao, chúng tôi luôn xem xét chúng một cách rất nghiêm túc.
Nhiều tổ chức được truyền cảm hứng từ Thiện nguyện hiệu quả cũng đang thực hiện các dự án "mang tính suy đoán" hơn, những dự án mà tác động của chúng rất khó để định lượng. Ví dụ, Open Philanthropy Project hoạt động trong các lĩnh vực như cải cách nhập cư, cải cách tư pháp hình sự, kinh tế vĩ mô và phát triển quốc tế.
Tìm hiểu thêm:
Vì sao việc so sánh các tổ chức từ thiện lại phức tạp - Why comparing charities is complex
Một số ví dụ về lập luận phản biện này:
Emily Clough trên the Boston Review
Pascal-Emmanuel Gobry Gobry trên The Week
Cộng đồng thiện nguyện hiệu quả hưởng lợi nhiều điều từ việc đa dạng hơn. Ban đầu, cộng đồng này chủ yếu hình thành từ những người ở các quốc gia phát triển và các trường đại học hàng đầu. Tuy nhiên, khi ngày càng phát triển, cộng đồng đang thu hút thêm nhiều thành viên từ các hoàn cảnh khác nhau. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy các hội nghị EA được tổ chức tại nhiều thành phố trên khắp thế giới, từ Singapore cho đến Abuja, Nigeria.
Xét về mặt quan điểm và lối sống, chúng tôi lại rất đa dạng. Có người ăn chay, có người không. Nhìn chung, cộng đồng mang tính phi tôn giáo, nhưng vẫn có những thành viên theo các tôn giáo khác nhau. Các quan điểm chính trị cũng rất phong phú.
Dù nhiều người có những quan điểm và giá trị vững chắc, chúng tôi luôn đề cao việc xây dựng một cộng đồng biết tôn trọng sự khác biệt và sẵn sàng lắng nghe những lời phê bình. Điều gắn kết tất cả chúng tôi là niềm đam mê chung: giúp đỡ người khác nhiều nhất có thể.
Tìm hiểu thêm:
Quan điểm của Trung tâm Thiện nguyện hiệu quả (CEA) về sự đa dạng và hòa nhập - Centre for effective altruism’s stance on diversity and inclusion