Liệu biến đổi khí hậu có phải là hồi chuông cáo chung cho nền văn minh nhân loại?
Trên toàn cầu, hơn một nửa thế hệ trẻ đang bị ám ảnh bởi nỗi lo rằng biến đổi khí hậu sẽ dẫn nhân loại đến ngày tàn.1 Những cảm xúc ngự trị trong họ là sự phẫn nộ, là cảm giác bất lực, và trên tất cả, là nỗi sợ hãi bao trùm trước một tương lai mịt mờ. 2
Biến đổi khí hậu là một vấn đề mang tính thời đại, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến vô số người, không chỉ bởi những khổ đau và bất công mà nó đã và đang gây ra, mà còn vì đây là một trong số ít những thách thức đủ sức tác động đến vận mệnh của thế giới trong nhiều thế hệ tương lai. Chính vì lẽ đó, chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng: việc bảo vệ các thế hệ tương lai là một ưu tiên đạo đức hàng đầu, Đó phải là kim chỉ nam để chúng ta ưu tiên hành động và tập trung nguồn lực giải quyết thách thức này.
Nếu biến đổi khí hậu có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh, điều đó đồng nghĩa với việc các thế hệ tương lai sẽ không bao giờ có cơ hội tồn tại – hoặc phải sống trong một thế giới vĩnh viễn suy tàn. Vì lẽ đó, việc ngăn chặn và thích ứng với các tác động của nó hiển nhiên phải là ưu tiên quan trọng hơn hầu hết mọi vấn đề khác.
Vậy, khoa học nói gì về điều này?
Báo cáo thẩm định lần thứ sáu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) theo ghi nhận của chúng tôi là đáng tin cậy và toàn diện nhất về biến đổi khí hậu. Báo cáo đưa ra một lời cảnh báo dứt khoát: Biến đổi khí hậu sẽ gây ra sức tàn phá vô cùng to lớn. Thế giới sẽ phải đối mặt với hàng loạt thảm họa như lũ lụt, đói kém, cháy rừng và hạn hán và đáng buồn thay, những người nghèo khó nhất hành tinh lại chính là những người phải gánh chịu hậu quả thảm khốc nhất.3
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đã nỗ lực tính đến cả những ẩn số bất định khôn lường nhất, 4 báo cáo của IPCC cũng không hề đưa ra một kết luận nào cho rằng nền văn minh nhân loại sẽ đứng trước bờ vực của sự diệt vong.
Bởi lẽ, những hậu quả mà biến đổi khí hậu gây ra là vô cùng tàn khốc: nó có thể làm lung lay sự ổn định của xã hội, hủy diệt các hệ sinh thái, đẩy hàng triệu người vào cảnh cùng quẫn, và thậm chí còn khoét sâu thêm những mối đe dọa υy hiếp sự tồn vong của nhân loại như đại dịch do con người tạo ra , rủi ro từ AI , hay chiến tranh hạt nhân . Nếu bạn muốn biến cuộc chiến chống biến đổi khí hậu thành việc làm sứ mệnh của mình, chúng tôi sẽ chỉ ra những hướng đi hiệu quả nhất ngay sau đây.
Đúng vậy, biến đổi khí hậu là một thực trạng đáng báo động. Và sự phẫn nộ của công chúng là hoàn toàn xác đáng khi những hành động ứng phó vẫn còn quá ít ỏi và chậm chạp.
Nhưng chúng ta không hề bất lực.
Và chúng ta vẫn chưa bị diệt vong.
Biến đổi khí hậu sẽ gây ra những tác động sâu sắc và tiêu cực trên toàn thế giới. Đặc biệt, những ảnh hưởng của nó lên các cộng đồng nghèo khó nhất và sự đa dạng sinh học của hành tinh đang là mối quan ngại vô cùng sâu sắc. . Khi phân tích những viễn cảnh xấu nhất, biến đổi khí hậu có thể trở thành một chất xúc tác nguy hiểm, làm trầm trọng thêm các mối đe dọa sự tồn vong của nhân loại vốn đến từ các nguồn khác, điển hình như xung đột giữa các cường quốc , chiến tranh hạt nhân hoặc đại dịch toàn cầu . Tuy nhiên, hãy nhìn nhận vấn đề từ một góc độ khác. Những thảm kịch tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu thường không xảy ra một mình, mà được châm ngòi bởi các hiểm họa lớn hơn như chiến tranh hay đại dịch. Vì vậy, việc tập trung nguồn lực để giải quyết trực tiếp các mối đe dọa gốc rễ này có thể sẽ mang lại tác động lớn và hiệu quả hơn."
Trong bối cảnh đó, chúng tôi tin rằng, so với việc chỉ tập trung vào "dấu chân carbon" cá nhân (tổng khí nhà kính do các hành động một người tạo ra như giao thông, sinh hoạt, tiêu thụ quần áo và thực phẩm), tác động từ sứ mệnh mà bạn theo đuổi còn quan trọng và mạnh mẽ hơn rất nhiều. Có những hướng đi giúp tạo ra sự thay đổi mang tầm vóc lớn lao hơn hẳn. Cụ thể, bạn hoàn toàn có thể cống hiến sự nghiệp của mình để:
Giải quyết vấn đề này có vẻ là một trong những cách tốt nhất để cải thiện tương lai lâu dài mà chúng ta biết, nhưng xét cho cùng, chúng tôi cho rằng nó không cấp bách bằng các lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của mình .
Quy mô Tác động (Scale)
Chúng tôi tin rằng những nỗ lực nhằm tối thiểu khả năng xảy ra các viễn cảnh thảm khốc nhất do biến đổi khí hậu sẽ mang lại những tác động tích cực vô cùng to lớn.
Dù vậy, cần phải nhìn nhận rằng biến đổi khí hậu có khả năng trực tiếp dẫn đến sự tuyệt chủng của loài người được xem là thấp hơn hàng trăm lần so với các nguy cơ khác mà chúng ta đang quan ngại, ví dụ như một đại dịch có sức hủy diệt hàng loạt. Do đó, nếu biến đổi khí hậu thực sự gây ra những hậu quả mang tính thảm họa và kéo dài đối với nền văn minh nhân loại, thì viễn cảnh đó sẽ không xảy ra một cách độc lập. Thay vào đó, nó sẽ đóng vai trò như một "chất xúc tác" khoét sâu và làm trầm trọng thêm các vấn đề sẵn có, chẳng hạn như xung đột giữa các cường quốc.
Yếu tố rủi ro gián tiếp này đã nâng mức độ thảm họa của biến đổi khí hậu lên gần hơn với các nguy cơ tuyệt chủng khác. Mặc dù vậy, xác suất gây tuyệt chủng từ biến đổi khí hậu vẫn được đánh giá là thấp hơn tới 10 lần so với chiến tranh hạt nhân hay đại dịch. Từ phân tích này, chúng tôi cho rằng con người nên nghiêm túc cân nhắc việc tập trung nguồn lực để giải quyết dứt điểm các nguy cơ này.
Nhìn chung, biến đổi khí hậu ít bị xem nhẹ hơn đáng kể so với các vấn đề khác mà chúng tôi đặt làm ưu tiên . Hiện tại, dòng tiền đầu tư cho khí hậu ước tính đã vượt 640 tỷ đô la mỗi năm. Vấn đề này cũng đã nhận được nguồn tài trợ khổng lồ trong nhiều thập kỷ, đồng nghĩa với việc rất nhiều dự án mang lại tác động sâu rộng đã và đang được triển khai. Hơn nữa, có thể dự báo rằng, khi các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng, mức độ quan tâm của xã hội sẽ còn gia tăng, cho phép chúng ta huy động thêm nguồn lực để chống lại những hậu quả tồi tệ nhất.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi khía cạnh đều đã được chú trọng. Vẫn có khả năng tồn tại những lĩnh vực chuyên biệt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu chưa nhận được sự chú ý tương xứng.
Biến đổi khí hậu dường như là một thách thức dễ quản lý và có lộ trình giải quyết rõ ràng hơn so với nhiều nguy cơ thảm họa toàn cầu khác.
Lý do là vì chúng ta có một thước đo thành công rất cụ thể: tổng lượng khí nhà kính được cắt giảm. Điều này đi cùng với kinh nghiệm thực tiễn dày dặn về các biện pháp đã được chứng minh là hiệu quả (ví dụ: năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng). Nhờ đó, chúng ta có những bằng chứng xác đáng để định hướng cho các hành động tiếp theo.
Dù vậy, không thể phủ nhận rằng biến đổi khí hậu là một bài toán phức tạp về sự hợp tác và điều phối ở quy mô toàn cầu. Sự thiếu đồng thuận và xung đột lợi ích giữa các quốc gia chính là một rào cản lớn khiến việc tìm ra lời giải chung trở nên vô cùng khó khăn.
Mức độ trung bình
Bài viết này thuộc chuỗi phân tích chuyên sâu của chúng tôi, thực hiện nhằm giúp bạn đọc xác định những thách thức nhức nhối nhất của thời đại và là nơi họ có thể tạo ra tác động ý nghĩa thông qua con đường sự nghiệp. Tại đây chúng tôi cũng đánh giá và so sánh mức dộ cấp thiết cảu vấn đề này trong tương quan với các chủ đề khác đã được nghiên cứu.
Chúng tôi vô cùng trân trọng mọi ý kiến đóng góp để hoàn thiện bài viết. Dù đó là một điểm chưa chính xác, một cách diễn đạt cần cải thiện, hay chỉ đơn giản là một lời chia sẻ tâm đắc, xin vui lòng cho chúng tôi biết suy nghĩ của bạn qua biểu mẫu này .
Chúng ta sẽ cùng xem xét ba viễn cảnh phổ biến nhất được cho là có thể khiến biến đổi khí hậu trực tiếp đẩy nhân loại đến bờ vực tuyệt diệt: nắng nóng cực đoan, nước biển dâng cao và khủng hoảng nông nghiệp.
Phải thừa nhận rằng, những viễn cảnh biến đổi khí hậu tồi tệ nhất vẽ nên một viễn cảnh vô cùng tăm tối, với cuộc sống của hàng tỷ người bị đảo lộn và những tổn thất to lớn về sinh mạng. Lý do chúng tôi tập trung vào lăng kính "tuyệt diệt" là vì, như đã phân tích, việc giảm thiểu những mối đe dọa υy hiếp sự tồn vong phải là ưu tiên hàng đầu của nhân loại, không chỉ cho thế hệ chúng ta mà còn vì trách nhiệm với tất cả các thế hệ tương lai.
Nói một cách ngắn gọn, hầu hết các nhà khoa học đều đồng thuận rằng việc biến đổi khí hậu trực tiếp gây ra sự tuyệt diệt của loài người là điều gần như không tưởng.
Trong một chủ đề vốn đã rất u ám này, đây có thể xem là một tia sáng le lói mà không phải ai cũng nhận ra.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta được phép lơ là. Biến đổi khí hậu không chỉ gây ra những hiểm họa khôn lường ngay cả khi chưa đến mức tận thế mà còn nguy hiểm hơn, chúng tôi cho rằng biến đổi khí hậu làm gia tăng nguy cơ tuyệt diệt một cách gián tiếp – bằng cách đóng vai trò như một "chất xúc tác" hiểm ác, khiến các mối đe dọa khác trở nên trầm trọng và khó kiểm soát hơn. Chúng ta sẽ đào sâu vào khía cạnh này trong trong phần tiếp theo.
Hành tinh của chúng ta càng nóng lên, những tác động của biến đổi khí hậu mà chúng ta phải đối mặt sẽ càng khốc liệt hơn.
Vì vậy, để xác định liệu biến đổi khí hậu có thể trực tiếp gây ra sự tuyệt chủng hay không, chúng ta phải làm rõ được mức tăng nhiệt độ dự kiến trong tương lai. Điều này lại phụ thuộc vào hai yếu tố then chốt: thứ nhất, lượng khí nhà kính mà nhân loại sẽ thải ra; và thứ hai, lượng khí thải đó sẽ tương ứng với mức tăng nhiệt độ là bao nhiêu. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng yếu tố.
Báo cáo thẩm định lần thứ sáu của Ủy ban liên chính phủ (IPCC) đã xem xét nhiều viễn cảnh có thể xảy ra, bao gồm:

Dự báo của IPCC về lượng khí thải trong tương lai cho đến năm 2100, trích từ Báo cáo thẩm định lần thứ sáu .
Đây là những viễn cảnh khả dĩ. Nhưng hãy thử đẩy mọi thứ đến giới hạn: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cố gắng đốt cháy toàn bộ trữ lượng nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất?
IPCC ước tính có khoảng 18.635 gigaton carbon tồn tại trong trữ lượng nhiên liệu hóa thạch của Trái Đất. 5
May mắn là, các phương pháp khai thác hiện tại không thể lấy đi toàn bộ, đặc biệt là than đá. Do đó, câu hỏi thực sự không phải là có bao nhiêu nhiên liệu hóa thạch, mà là bao nhiêu trong số đó có thể được thu hồi với công nghệ trong tương lai.
Ước tính cao nhất từng được đưa ra về trữ lượng nhiên liệu hóa thạch có thể thu hồi là 2.860 gigaton carbon. 6
Việc giải phóng khoảng 3.000 gigaton carbon sẽ đẩy nồng độ carbon dioxide trong khí quyển lên mức khoảng 2.000 ppm (phần triệu). Để dễ so sánh, nồng độ này ở thời kỳ tiền công nghiệp chỉ là 278 ppm và hiện nay là khoảng 415 ppm. 7
Sự nóng lên toàn cầu do sự phát thải của chúng ta sẽ diễn ra trong nhiều thập kỷ và thế kỷ, và mức độ của nó phụ thuộc vào tổng lượng carbon tích tụ trong khí quyển.
Tuy nhiên, việc dự báo chính xác mức tăng nhiệt độ là một thách thức khổng lồ. Lý do nằm ở sự tồn tại của các "hiệu ứng phản hổi" (feedback loops) phức tạp trong hệ thống khí hậu – những cơ chế có thể khuếch đại hoặc kìm hãm sự nóng lên ban đầu.
Đây là một ví dụ điển hình về một trong những hiệu ứng phản hồi đó: khi bạn nung một kim loại đủ nóng, nó sẽ phát sáng màu đỏ. Những vật ở nhiệt độ thấp hơn nhiều sẽ phát sáng ở dạng hồng ngoại — đó là lý do tại sao bạn có thể “nhìn thấy” người vào ban đêm bằng camera hồng ngoại . Vật thể càng nóng, nó càng giải phóng nhiều năng lượng qua dạng bức xạ này (được gọi là bức xạ vật đen ). Vì vậy, khi nhiệt độ Trái Đất tăng lên, nhành tinh của chúng ta sẽ bức xạ nhiều năng lượng hồng ngoại hơn trở lại không gian. Quá trình này giúp làm giảm bớt tác động của khí thải lên nhiệt độ toàn cầu.
Thế nhưng, cũng tồn tại những hiệu ứng phản hồi có thể khiến tình hình thêm trầm trọng, và chúng ta sẽ xem xét chúng ngay đây. Trong những trường hợp xấu nhất, các vòng lặp này có liên quan đến “các điểm tới hạn” (tipping points), Tại đó, một khi lượng khí nhà kính đạt đến một ngưỡng nhất định, nó sẽ kích hoạt một hiệu ứng phản hồi dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ cực kỳ lớn và mang tính vĩnh viễn.
Về lý thuyết, chúng ta có thể chứng kiến nhiệt độ tăng đến mức cực đoan thông qua một hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát (runaway greenhouse effect)
Chúng ta biết điều này là có thể vì nó dường như đã từng xảy ra trước đây: trên Sao Kim . Ngay sau khi hình thành, Sao Kim có thể đã là nơi có thể sinh sống được, với một đại dương nước lớn . Nhưng Sao Kim hình thành gần Mặt Trời hơn Trái Đất, và sự gia tăng nhiệt độ nhẹ này đã dẫn đến sự bốc hơi dần dần của đại dương. Hơi nước là một loại khí nhà kính, vì vậy điều này dẫn đến sự nóng lên và bốc hơi mạnh hơn nữa, cuối cùng đưa Sao Kim từ một hành tinh có thể sinh sống được đến một nơi có nhiệt độ bề mặt lên tới 462°C (864°F), đủ nóng để làm tan chảy chì .
May mắn thay, hầu hết các mô hình đều cho thấy rằng ngay cả về nguyên tắc, lượng khí thải carbon dioxide do con người tạo ra không thể đạt đến mức đủ cao để gây ra hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát ở quy mô tương tự như sao Kim. 8
Và ngay cả khi cuối cùng chúng ta mất toàn bộ đại dương vào không gian, quá trình này cũng sẽ mất hàng trăm triệu năm. Do đó, chúng ta rất có khả năng sẽ ngăn chặn được quá trình đó hoặc tìm ra những cách khác để sinh tồn (nếu một biến cố nào khác không tiêu diệt chúng ta trước).
Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nếu nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đạt khoảng 1.300 ppm (phần triệu) Một viễn cảnh không may có thể xảy ra trong các trường hợp xấu nhất là các tầng mây trắng giúp phản xạ nhiệt của Mặt Trời có thể sẽ không còn ổn định và tiêu tan khi khí hậu nóng lên quá mức.
Nhiều nhà khoa học cho rằng mô hình được sử dụng trong nghiên cứu này còn quá đơn giản để có thể xem là đáng tin cậy .
Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận khoa học về vấn đề này. Nếu mô hình trong nghiên cứu nói trên là đúng, thì hiệu ứng phản hồi từ mây sẽ gây ra thêm 8°C nhiệt độ nóng lên nữa, cộng vào mức tăng dự kiến 6–7°C vốn đã gắn với lượng khí thải đó. Điều này sẽ đẩy chúng ta vào vùng tác động cực đoan sẽ được liệt kê dưới đây.
Methane clathrate (còn gọi là băng cháy) là một hợp chất được hình thành từ khí methane bị giữ lại bên trong một tinh thể phân tử nước rắn — về cơ bản là băng chứa methane. Có một trữ lượng khổng lồ methane clathrate nằm dưới đáy đại dương.
Khi đại dương ấm lên, chúng có thể làm tan chảy các khối clathrate này, giải phóng thêm khí methane vào khí quyển.
Báo cáo thẩm định lần thứ sáu ước tính rằng có một lượng tương đương 1.500–2.000 gigaton carbon dioxide đang bị giữ lại trong các khối methane clathrate (gấp khoảng hai lần lượng chúng ta đã phát thải cho đến nay). Tuy nhiên, họ dự đoán rằng bất kỳ sự giải phóng clathrate nào cũng sẽ diễn ra trong vòng nhiều thế kỷ hoặc thiên niên kỷ, điều này sẽ cho chúng ta thêm thời gian đáng kể để thích ứng với các thay đổi.
Vì vậy, IPCC cho rằng khí thải từ clathrate khó có khả năng gây ra sự nóng lên đáng kể trong vài thế kỷ tới.
Các nghiên cứu về sự giải phóng của methane clathrate dường như còn thiếu xót, do đó có rất nhiều điều chúng ta chưa biết — và điều này góp phần vào sự bất định chung của chúng ta về việc Trái Đất sẽ nóng lên đến mức nào.
Có những lớp đất đóng băng vĩnh cửu ở Bắc Cực và các vùng lạnh khác của Trái Đất. IPCC ước tính có khoảng 1.460–1.600 gigaton carbon dioxide (hoặc lượng khí nhà kính khác tương đương) đang được lưu trữ trong lớp băng vĩnh cửu này.
Một phần của lớp băng vĩnh cửu này hiện đã và đang tan chảy, giải phóng khí nhà kính.
Sự tan băng đột ngột có thể khiến tới một nửa lượng khí nhà kính bị giữ lại này được giải phóng ngay lập tức, phần còn lại sẽ được giải phóng từ từ trong nhiều thập kỷ.
Báo cáo của IPCC cho biết cứ mỗi 1ºC nóng lên, lượng phát thải từ băng vĩnh cửu sẽ tăng thêm 18 gigaton carbon dioxide, với khoảng dao động (từ 5% đến 95%) là từ 3 đến 42 gigaton. Ở ngưỡng cao nhất của các mô hình, chúng ta có thể chứng kiến tới 600 gigaton carbon dioxide được giải phóng từ băng vĩnh cửu, làm hành tinh nóng lên thêm khoảng một độ (ngoài mức 6ºC mà chúng ta đã thấy từ phát thải của con người trong các viễn cảnh này).
Tóm lại: Phạm vi nhiệt độ có thể tăng do biến đổi khí hậu là bao nhiêu?
Với một lượng khí nhà kính nhất định mà chúng ta thải ra, chúng ta cần biết các mức nhiệt độ khả dĩ mà Trái Đất có thể đạt tới.11
Rõ ràng là có một mức thay đổi nhiệt độ tối thiểu có thể xảy ra; và việc nhiệt độ sẽ tăng lên là điều gần như chắc chắn.12
Báo cáo thẩm định lần thứ sáu của IPCC đã đưa ra các ước tính về mức độ tăng nhiệt độ theo các viễn cảnhphát thải mà chúng ta đã xem xét trước đó (trải dài từ việc đáp ứng các điều khoản của Thỏa thuận Paris cho đến viễn cảnh tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch 1 cách cực đoan).

Các dự báo của IPCC về mức tăng nhiệt độ đến năm 2100,, trích từ Báo cáo thẩm định lần thứ sáu . Đỉnh của mỗi cột là ước tính trung vị của IPCC; các đường "râu" thể hiện khoảng tin cậy 90%.
Mặc dù các ước tính này đã bao gồm yếu tố bất định về các hiệp ứng phản hồi (feedback loops) tiềm tàng ( sẽ được phân tích sâu hơn ở phần sau ), chúng được thể hiện với khoảng tin cậy 90%. Điều này có nghĩa là vẫn còn 10% xác suất mà nhiệt độ thực tế sẽ nằm ngoài khoảng dự báo: có thể sẽ tăng cao hơn giới hạn trên của các đường "râu", hoặc ngược lại, thấp hơn giới hạn dưới của chúng.
Trong một viễn cảnh còn tồi tệ hơn cả trường hợp xấu nhất của IPCC (nơi toàn bộ nhiên liệu hóa thạch có thể khai thác đều bị đốt cháy) sẽ có xác suất 1/6 mà chúng ta phải chứng kiến mức nhiệt tăng hơn 9°C vào năm 2100.13 Đáng chú ý, có một khả năng xảy ra cực kỳ thấp nhưng có thật, rằng mức tăng này đủ để kích hoạt các hiệu ứng phản hồi từ mây ở viễn cảnh tồi tệ nhất.
Tổng cộng, điều đó sẽ dẫn đến mức tăng nhiệt độ khoảng 13°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Chúng ta sẽ đạt đến ngưỡng 13°C đó chỉ trong vòng vài năm hoặc vài thập kỷ sau khi điểm giới hạn của “hiệu ứng phản hồi của đám mây” bị kích hoạt – và sau đó, sự nóng lên có thể còn tiếp diễn trong nhiều thế kỷ và thiên niên kỷ. Mức tăng nhiệt 13°C này sẽ là một thảm họa nhân đạo ở quy mô chưa từng có tiền lệ.
Theo các hiểu biết khoa học hiện tại, việc đạt tới ngưỡng 13°C là rất khó xảy ra. Đây cũng là mức nhiệt độ cực hạn mà các mô hình dự báo có thể xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn, một sự thay đổi quá nhanh mà chúng ta gần như không thể thích nghi kịp. 14
Bây giờ, chúng ta sẽ chuyển sang xem xét liệu sự nóng lên này có thể trực tiếp gây ra sự tuyệt diệt của loài người hay không thông qua sốc nhiệt, nước biển dâng, hay sự sụp đổ của nền nông nghiệp.
Vào những ngày nóng và ẩm đỉnh điểm, chỉ cần bước chân ra ngoài là bạn lập tức có cảm giác như ai đó vừa úp một chiếc khăn nóng ẩm (loại mà bạn đôi khi được phát trên máy bay) trùm kín cả đầu. Tôi đeo kính, và mắt kính mờ đi ngay tức khắc. Mồ hôi túa ra như tắm. Mọi người tìm mọi cách để không phải ra ngoài. Vào mùa hè, bạn bè và tôi gần như phải tập ‘sống về đêm’ để tránh đi cái nóng.
John Hagner, kể về cuộc sống tại Dharan, Ả Rập Xê Út (một trong những nơi có người ở chịu đựng cái nóng khắc nghiệt nhất thế giới)
Nếu nhiệt độ tăng đủ cao, con người sẽ không thể sống sót quá vài giờ – ngay cả khi ở trong bóng râm. Tại những nơi có độ ẩm cao như vùng nhiệt đới, cơ thể khó làm mát bằng cách đổ mồ hôi hơn, khiến tác động này càng thêm tồi tệ.
Điều này có thể khiến những khu vực rộng lớn trên hành tinh không thể có người ở (ít nhất là ở ngoài trời hoặc nếu không có điều hòa không khí) trong những khoảng thời gian đáng kể của năm. Bản đồ này minh họa số ngày trong năm mà nhiệt độ bề mặt sẽ vượt ngưỡng 35°C (95°F) tại nhiều khu vực, nếu Trái Đất nóng lên khoảng 7°C. Đây là một ví dụ rõ ràng về những vùng đất có thể trở nên quá nóng để con người sinh tồn.15
Nếu nhiệt độ tăng thêm 12°C, phần lớn diện tích đất nơi con người hiện đang sinh sống sẽ trở nên quá nóng để có thể tồn tại trong ít nhất vài ngày mỗi năm. 16 Mức tăng 13°C sẽ khiến việc lao động ngoài trời là bất khả thi trong hầu hết các tháng trong năm ở vùng nhiệt đới, và khoảng nửa năm ở các vùng ôn đới hiện tại.
Tuy nhiên, ngay cả khi có hiệu ứng phản hồi từ mây, cũng phải mất hàng thập kỷ để nhiệt độ toàn cầu đạt đến mức này. Và trong khi viễn cảnh tồi tệ nhất này sẽ gây ra những đau thương và mất mát không thể tả xiết, khả năng cao là chúng ta có thể thích nghi để tránh khỏi sự tuyệt diệt (ví dụ: bằng cách xây dựng các công trình kiên cố hơn, phổ biến điều hòa không khí, cũng như dịch chuyển đến các khu vực mát mẻ hơn trên Trái Đất).
Hơn nữa, kịch bản này khó có thể trực tiếp dẫn đến tuyệt diệt ngay cả khi chúng ta không thích nghi, bởi một phần lớn diện tích đất liền trên Trái Đất vẫn sẽ ở được, ngay cả khi nhiệt độ tăng 13°C. Chúng ta sẽ phải sống trong một không gian nhỏ hơn rất nhiều, nhưng nền văn minh vẫn sẽ tồn tại.
Báo cáo Thẩm định thứ sáu của IPCC dự báo mực nước biển sẽ dâng khoảng 1 mét vào năm 2100 nếu nhiệt độ toàn cầu tăng 5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Trong các kịch bản xấu nhất, con số này có thể lên tới 2 mét.

Dự báo của IPCC về mực nước biển dâng cao vào năm 2100,
nguồn: Báo cáo Thẩm định giá lần thứ sáu .
Bản đồ này minh họa những vùng đất sẽ nằm dưới mực triều cường vào năm 2100 trong kịch bản Trái Đất nóng lên 5°C.
Lưu ý: Đây là một kịch bản rất bi quan (thuộc phân vị thứ 95, tức nhóm 5% các khả năng tồi tệ nhất), giả định rằng các yếu tố tự nhiên có thể giúp kìm hãm đà dâng của biển sẽ không xảy ra.

Việc mô hình hóa mực nước biển dâng là vô cùng phức tạp, do đó vẫn còn những bất cập lớn về việc xác định mức độ nghiêm trọng của nó. Nhìn xa hơn, mực nước biển có thể dâng cao hơn rất nhiều. IPCC cảnh báo rằng, trong kịch bản phát thải tồi tệ nhất (tương ứng mức nóng lên khoảng 6°C), thì khả năng "mực nước biển dâng cao hơn 15m vào năm 2300 là không thể không tính tới."

Dự báo của IPCC về mực nước biển dâng cao trong tương lai vào năm 2300, trích từ Báo cáo đánh giá lần thứ sáu .
Hiện tại, chúng ta chưa có bất kỳ mô hình nào về mực nước biển dâng trong kịch bản nhiệt độ tăng 13°C. Tuy nhiên, để xác định giới hạn trên của thảm họa, chúng ta có thể xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu các chỏm băng ở hai địa cực tan chảy hoàn toàn. Ước tính cao nhất cho thấy kịch bản này sẽ khiến mực nước biển dâng khoảng khoảng 80 mét . Hậu quả là 50 thành phố lớn trên thế giới sẽ bị ngập lụt, nhưng phần lớn diện tích đất liền của hành tinh vẫn sẽ cao hơn mặt nước.

hần diện tích đất liền còn lại sau kịch bản nước biển dâng 80 mét, theo tính toán của các nhà nghiên cứu tại Đại học Pennsylvania. © 2017 Richard J. Weller, Claire Hoch và Chieh Huang Atlas for the End of the World .
Tương tự như vấn đề sốc nhiệt, chúng ta có thể sẽ thích ứng được với những thay đổi này, đặc biệt là thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới như nhà ở hoặc các hệ thống phòng hộ ven biển. Việc mực nước biển cần hàng thế kỷ để dâng lên hoàn toàn cũng đồng nghĩa với việc quá trình thích ứng này sẽ có khả năng xảy ra cao hơn.
Các mô hình cho thấy, nếu không có sự thích ứng, mực nước biển dâng 1 mét sẽ khiến khoảng nửa tỷ người sẽ phải mất nhà cửa. Nhưng với sự thích ứng (như xây dựng các công trình phòng hộ), con số này sẽ nhỏ hơn rất nhiều: IPCC ước tính trên thực tế chỉ có khoảng vài trăm nghìn người phải di dời ngay cả khi nước biển dâng 2 mét – một con số thấp hơn rất nhiều so với nửa tỷ.
Khả năng thích ứng này là hoàn toàn có cơ sở, bởi chúng ta đã từng chứng kiến điều đó trong quá khứ. Do tình trạng sạt lở đất nghiêm trọng, thành phố Tokyo trong thế kỷ 20 đã trải qua một mực nước biển dâng cao đáng kể lên tới 4 mét. Tốc độ sụt lún này (khoảng 40mm mỗi năm) tương đương với tốc độ nước biển dâng trong các kịch bản xấu nhất của IPCC.
Do đó, nước biển dâng sẽ gây ra những xáo trộn và nhức nhối to lớn cho xã hội, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển. Cái giá cho sự thích ứng cũng vô cùng tốn kém – IPCC dự báo rằng, với kịch bản nóng lên 4-5°C, chúng ta sẽ phải chi hơn 1% GDP toàn cầu chỉ để chống chọi với lũ lụt.
Tuy nhiên, cũng như sốc nhiệt, nước biển dâng không phải là một nguy cơ gây tuyệt chủng.
Báo cáo Đặc biệt của IPCC về Biến đổi khí hậu và Đất đai chỉ ra rằng hàng trăm triệu người nữa có thể sẽ đối mặt với nguy cơ đói nghèo vào năm 2050 do biến đổi khí hậu.
Bên cạnh các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lụt hay hạn hán làm gián đoạn sản xuất, những thay đổi trong nhiệt độ và lượng mưa cũng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất tạo ra lương thực của chúng ta.
Dù vậy, biến đổi khí hậu cũng có thể mang lại một số tác động tích cực cho nông nghiệp – ví dụ, chúng ta sẽ có thể canh tác cây trồng ở những khu vực hiện tại vốn quá lạnh . Những tác động tích cực này đủ khả năng để bù đắp phần nào cho những tác động tiêu cực.
Tuy nhiên, với các kịch bản nóng lên cực đoan, nhiệt độ tăng cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến nông nghiệp.

Ngưỡng nhiệt độ tối đa trung bình đối với sự ra lá, sinh trưởng của thân, rễ và khả năng gây chết trên cây lúa, lúa mì và ngô. Nguồn: Sanchez và cộng sự, 2013
Các phản ứng hóa học thiết yếu cho sự tồn tại của thực vật (bao gồm quang hợp và hô hấp) không thể hoạt động nếu nhiệt độ quá cao. Do đó, một mức tăng nhiệt hơn 10°C có khả năng sẽ hủy hoại nền nông nghiệp tại Ấn Độ và các khu vực có nền khí hậu tương tự.
Chúng ta cũng có thể chứng kiến những thay đổi lớn về lượng mưa, mà trong các viễn cảnh cực đoan, sẽ gây tổn hại đáng kể cho nông nghiệp. Biểu đồ này minh họa sự thay đổi về lượng mưa đến năm 2050 tại nhiều khu vực khác nhau, theo một viễn cảnh phát thải cao. 18
(Lưu ý chung: Các dự báo về lượng mưa và những sự thay đổi thời tiết khác, như tần suất của các hiện tượng cực đoan, là rất khó diễn ra và có sự khác biệt lớn giữa các mô hình — do đó, tất cả những con số này cần được xem xét một cách cẩn thận!)
Tuy nhiên, ngay cả khi đối mặt với những gián đoạn này, chúng ta vẫn có khả năng thích ứng nhờ vào sự gia tăng không ngừng của năng suất nông nghiệp. Trong vài thế kỷ qua, giá lương thực đã giảm nhờ công nghệ sản xuất lương thực số lượng lớn ngày càng rẻ hơn.
Trong vài thế kỷ qua, giá lương thực toàn cầu đã liên tục giảm do công nghệ giúp việc sản xuất trên quy mô lớn ngày càng hiệu quả và rẻ hơn.
Do đó, tác động của biến đổi khí hậu cần được đặt trong bối cảnh năng suất đang cải thiện nhanh chóng. Ngay cả khi nhiệt độ tăng mạnh, quá trình này cũng cần thời gian (hàng thập kỷ hoặc thế kỷ). Vì vậy, IPCC kỳ vọng (với độ tin cậy cao) rằng nhân loại sẽ có thể thích ứng để giảm thiểu các rủi ro đối với an ninh lương thực.
Dù vậy, một chuyên gia mà chúng tôi tham vấn nhận định rằng, trong một thế giới nóng hơn 13°C, hạn hán và đứt gãy nông nghiệp có thể sẽ dẫn đến cái chết của hàng trăm triệu người. Nhưng ngay cả kịch bản kinh hoàng này vẫn còn một khoảng cách rất xa mới tới sự tuyệt chủng của loài người, hay một mức độ thảm họa có thể khiến nền văn minh không bao giờ gượng dậy nổi.
Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến sự sụp đổ của hệ sinh thái. Nhiều quan điểm đạo đức coi trọng giá trị nội tại của đa dạng sinh học — và ngay cả khi bạn không nghĩ vậy, sự sụp đổ của hệ sinh thái vẫn có thể ảnh hưởng đến con người và các loài động vật khác theo những cách khác.
Ước tính về tỷ lệ các loài có thể bị tuyệt chủng do biến đổi khí hậu rất khác nhau, nhưng trong trường hợp xấu nhất, các mô hình dự đoán có tới 40% các loài có thể "bị tuyệt chủng" vào giữa thế kỷ này. 19
Vậy biến đổi khí hậu cực đoan có thể gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến đa dạng sinh học. Vậy còn tầm quan trọng mang tính công cụ của đa dạng sinh học thì sao? Liệu sự suy giảm đa dạng sinh học có làm trầm trọng thêm tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu đối với nông nghiệp hay không? Để điều này xảy ra, chúng ta phải chứng kiến một sinh vật thiết yếu đối với chuỗi thức ăn của chúng ta tuyệt chủng. Một khả năng hợp lý ở đây là các loài thụ phấn - vốn đang suy giảm quần thể - có thể bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, các mô hình cho thấy sản lượng nông nghiệp của chúng ta sẽ chỉ giảm khoảng 10% nếu không có các loài thụ phấn. 20 Kareiva và Carranza tại Trung tâm Nghiên cứu Rủi ro Hiện sinh Cambridge đã nghiên cứu vấn đề này chi tiết hơn và kết luận rằng sự sụp đổ của hệ sinh thái rất khó có thể gây ra rủi ro cho sự tồn tại của con người. 21
Tất nhiên, đa dạng sinh học còn mang lại nhiều lợi ích khác, chẳng hạn như việc phát triển các loại thuốc mới . Nhưng nhìn chung, sự mất mát đa dạng sinh học dường như sẽ không dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh.
Nếu theo các chính sách hiện tại, chúng ta có thể sẽ chứng kiến Trái Đất nóng lên khoảng 2-3°C vào năm 2100. Cũng không thể loại trừ khả năng những nỗ lực giảm phát thải hiện tại sẽ bị đảo ngược. Viễn cảnh này có thể xảy ra nếu các ngành kinh tế vốn khó phi carbon hóa (như công nghiệp nặng, hàng không) tăng trưởng đột biến, nếu chúng ta phát triển những công nghệ mới tiêu tốn năng lượng khổng lồ, hoặc nếu một cú sốc như chiến tranh quy mô lớn bùng nổ, buộc các quốc gia phải ưu tiên các hoạt động thâm dụng carbon.
Trong viễn cảnh bản tồi tệ hơn, chúng ta đốt nhiên liệu hóa thạch bất chấp chúng đắt hơn năng lượng sạch. Và trong viễn cảnh xấu nhất nhưng cực kỳ khó xảy ra, chúng ta đốt toàn bộ nhiên liệu có thể khai thác và khiến Trái Đất nóng lên 7°C.
Có một xác suất rất nhỏ rằng trong những viễn cảnhkhó xảy ra này, điểm giới hạn của hiệu ứng vòng lặp của mây bị kích hoạt, có thể dẫn đến mức tăng nhiệt kinh hoàng, khoảng 13°C.
Mặc dù đây sẽ là một thảm họa ở quy mô chưa từng có, nhân loại vẫn sẽ có đủ đất đai mát mẻ để sinh sống, không phải tất cả đều bị nhấn chìm, và chúng ta vẫn có thể sản xuất lương thực ở nhiều nơi. Nói cách khác, nhân loại vẫn sẽ tồn tại.
Nhưng liệu kết luận này có tính đến các yếu tố bất định một cách đầy đủ không?
Suy cho cùng, bất cứ khi nào chúng ta cố gắng sử dụng những gì đã khám phá được để đưa ra dự đoán về tương lai, chúng ta phải nhận thức rằng có thể có những điều chúng ta không biết, vốn có thể khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn những gì chúng ta kỳ vọng.
Chúng ta đã thấy ở trên rằng một trong những nguồn bất định chính là các kịch bản phát thải mà chúng ta sẽ theo đuổi trong tương lai. Chúng tôi đã cố gắng tính đến điều này bằng cách xem xét một loạt kịch bản khác nhau – bao gồm cả việc chúng ta đốt cháy tất cả các nhiên liệu hóa thạch có thể khai thác được sau cùng.
Chúng ta cũng đã thấy sự tồn tại của sự bất định về mặt cấu trúc (strutural uncertainty) : nghĩa là, sự không chắc chắn trong các dự đoán của chúng ta vì có những điều chúng ta chưa biết về cách thức hoạt động của hệ thống — ví dụ, liệu các khối băng cháy (methane clathrates) có gây ra hiện tượng nóng lên đáng kể trong vài thế kỷ tới hay không.
Báo cáo Đánh giá lần thứ sáu của IPCC, xây dựng dựa trên đánh giá của Sherwood và cộng sự về độ nhạy khí hậu của Trái Đất, đã nỗ lực tính đến sự bất định về cấu trúc và những ẩn số chưa được biết đến (unknown unknowns). Về cơ bản, họ nhận thấy rằng khó có khả năng tất cả các luồng bằng chứng khác nhau đều bị thiên lệch (biased) về chỉ một hướng duy nhất — bởi với mỗi yếu tố cần cân nhắc có thể làm tăng sự nóng lên, thì cũng có những yếu tố cần cân nhắc có thể làm giảm nó. 22
Điều này có nghĩa là chúng ta nên kỳ vọng rằng các ẩn số phần lớn sẽ triệt tiêu lẫn nhau, và sẽ là một bất ngờ nếu chúng nghiêng hẳn về một phía này hay phía khác.
Tuy nhiên, có một vài lưu ý:
Nhưng nhìn chung, dù chúng ta còn thiếu hiểu biết về một số vòng lặp phản hồi có liên quan, điều này chỉ tạo ra một khả năng rất nhỏ rằng sự bất định của mô hình sẽ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn một cách đột biến.
Do đó, khả năng chúng ta chứng kiến những thay đổi nhiệt độ cần thiết để biến đổi khí hậu gây ra các loại tác động có thể trực tiếp dẫn đến tuyệt chủng là cực kỳ thấp (chúng tôi ước tính xác suất này nhỏ hơn 1 trên 1.000.000).
Như đã lập luận ở các phần trước, biến đổi khí hậu rất khó có khả năng trực tiếp gây ra sự tuyệt chủng của loài người.
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu dường như vẫn góp phần làm gia tăng nguy cơ này một cách gián tiếp, bằng cách làm trầm trọng thêm các mối đe dọa υy hiếp sự tồn vong khác.
Trong phần này, chúng ta sẽ phân tích các yếu tố phổ biến thường được đưa ra để lập luận rằng biến đổi khí hậu có thể làm tăng nguy cơ tuyệt chủng, đồng thời đánh giá mức độ tác động thực sự của từng yếu tố.
Như chúng ta đã thấy, nhiệt độ tăng cao và mực nước biển dâng lên đang thay đổi sâu sắc môi trường sống của con người. Không chỉ vậy, những biến động trong nông nghiệp và sinh kế cũng sẽ đẩy nhiều người vào cảnh di cư tìm kiếm nơi ở mới và cơ hội sinh tồn.
Theo Báo cáo Đánh giá Thứ năm của IPCC , nếu không có biện pháp thích ứng kịp thời, mực nước biển dâng nửa mét sẽ khiến 72 triệu người buộc phải rời bỏ nơi cư trú. Trong kịch bản xấu nhất với mức dâng lên 2 mét, khoảng 2,5% dân số thế giới, tương đương hàng trăm triệu người, có nguy cơ mất nhà cửa. Tuy nhiên, nếu các chính phủ xây dựng các công trình bảo vệ như đê chắn sóng, con số này có thể giảm xuống dưới nửa triệu người.
Nếu nhiệt độ tăng thêm 6°C, chúng ta sẽ chứng kiến làn sóng di cư tồi tệ hơn. Khi nhiệt độ tăng thêm 6°C, nhiều khu vực nóng bức không có điều hòa sẽ trở nên không thể sinh sống, dẫn đến dòng di cư khổng lồ với quy mô có thể lên tới hàng trăm triệu người.
Việc di cư ồ ạt không chỉ làm gia tăng áp lực lên tài nguyên các khu vực đón nhận, mà còn làm bùng phát nguy cơ xung đột. Những cuộc di cư cưỡng bức này cũng đồng thời thúc đẩy sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm và gia tăng căng thẳng chính trị. Tuy nhiên, việc định lượng chính xác quy mô tác động này vẫn là thách thức lớn do tính phức tạp của các hệ quả xã hội.
Vậy, biến đổi khí hậu sẽ góp phần ra sao vào nguy cơ tuyệt chủng của loài người? Con đường rủi ro lớn nhất chính là sự gia tăng xung đột, đặc biệt là nguy cơ chiến tranh giữa các cường quốc , một nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng đe dọa sự tồn vong của nhân loại.
Khả năng biến đổi khí hậu gây ra khủng hoảng kinh tế, di cư hàng loạt và khan hiếm tài nguyên đã và sẽ khiến việc xảy ra các cuộc xung đột 23 , dù biến đổi khí hậu chỉ là một phần nguyên nhân, là điều hết sức có thể.
Phần lớn các xung đột được dự báo sẽ là nội chiến, đặc biệt tập trung ở những vùng vốn đã bất ổn và dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu, như nhiều quốc gia châu Phi. ( theo Báo cáo thẩm định lần thứ năm của IPCC).
Nguy cơ leo thang lên những cuộc chiến tranh lớn hơn cũng hiện hữu. Khi biến đổi khí hậu làm suy giảm vị thế của các cường quốc như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Liên minh Châu Âu hay Hoa Kỳ, hậu quả có thể là một cuộc khủng hoảng toàn cầu với xung đột giữa các cường quốc. Nguyên nhân có thể là do khủng hoảng di cư, áp lực nhiệt độ, mực nước biển dâng, thay đổi nông nghiệp hoặc ảnh hưởng kinh tế chung.
Dù những dự báo này mang tính suy đoán, chúng ta không được phép xem nhẹ.
Xung đột càng gia tăng sẽ càng cản trở khả năng hợp tác giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ví dụ, nó kthúc đẩy chạy đua vũ trang nguy hiểm, đặc biệt là giữa các cường quốc. Vì vậy, không có gì khó hiểu khi xảy ra xung đột - đặc biệt là giữa các quốc gia hùng mạnh - làm dấy lên nguy cơ hiện sinh đe dọa sự tồn tại của loài người .
Ngoài xung đột, nhiều cơ chế khác được đề xuất cũng làm tăng bất ổn xã hội dưới tác động biến đổi khí hậu:
Cũng có khả năng chúng ta sẽ thúc đẩy phát triển công nghệ để đảo ngược biến đổi khí hậu với mục đích ngăn chặn thảm họa - ví dụ như địa kỹ thuật năng lượng mặt trời . Nhưng điều này cũng tiềm ẩn những rủi ro riêng, Việc thử nghiệm các công nghệ quy mô toàn cầu để đảm bảo an toàn là vô cùng khó khăn, đồng thời có thể gây xung đột giữa các quốc gia về việc phân bố hạn hán hoặc lượng mưa điều chỉnh nhân tạo.
Những rủi ro đối với nhân loại, như chiến tranh hạt nhân hay đại dịch, không chỉ ảnh hưởng đến một nhóm người hay một quốc gia cụ thể, vì vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi nhiều giải pháp khả thi nhất lại đòi hỏi sự hợp tác toàn cầu.
May mắn thay, nếu chúng ta có khả năng hợp tác để giảm những rủi ro này, thì chúng ta hoàn toàn có thể làm được. Suy cho cùng, nếu không hợp tác, hệ quả sẽ là thảm họa toàn cầu! Tuy nhiên, năng lực thực sự để hợp tác là yếu tố then chốt.
Đáng tiếc thay, dường như biến đổi khí hậu lại làm suy giảm khả năng hợp tác của chúng ta.
Ví dụ, đã có ý kiến cho rằng tình trạng khan hiếm tài nguyên gia tăng (đặc biệt là khan hiếm nước) do biến đổi khí hậu có thể làm tăng nguy cơ xung đột ở Kashmir , một trong những điểm nóng quan trọng nhất về nguy cơ xung đột giữa các cường quốc và tiềm tàng chiến tranh hạt nhân (trường hợp này là giữa Ấn Độ và Pakistan, dù cả hai đều muốn tránh chiến tranh). Chúng tôi không chắc điều này có đúng không , nhưng có vẻ như không phải là không thể.
Sự bât ổn cũng làm tăng nguy cơ các tác nhân đơn lẻ, chẳng hạn như các tổ chức khủng bố, đơn phương hành động gây ra thảm họa. Và chính những hành động cố ý gây hại như vậy là một trong các kịch bản chủ chốt có thể dẫn tới rủi ro sinh học thảm họa toàn cầu .
Chúng tôi tin rằng thế kỷ 21 có thể là thế kỷ quan trọng nhất của nhân loại nhờ sự tiến bộ công nghệ nhanh chóng, đặc biệt trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Nếu điều đó đúng, thì chúng ta càng phải thận trọng để đảm bảo mọi chuyện tiến triển tốt đẹp. Sẽ có nhiều điều không thể lường trước xảy ra, và biến đổi khí hậu sẽ là nguyên nhân chính gây ra một phần lớn trong số đó. Biến đổi khí hậu càng nghiêm trọng, những bất ổn càng trở nên khó đoán định. Riêng điều này đã là lý do mạnh mẽ để xem xét việc cống hiến sự nghiệp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn nhận định rằng rủi ro này ở mức tương đối thấp. Nếu bản thân biến đổi khí hậu chỉ gây ra xác suất tuyệt diệt là 1/1.000.000, chúng tôi ước đoán rằng đóng góp của nó vào các rủi ro tồn vong khác cũng chỉ cao hơn một vài bậc – khoảng chừng 1/10.000.
Do đó, có thể khẳng định biến đổi khí hậu làm các rủi ro tồn vong khác trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, nhân loại vẫn có khả năng vượt qua biến đổi khí hậu rất lớn.
Ngay cả khi biến đổi khí hậu khó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra tuyệt diệt cho loài người, liệu nó vẫn có thể gây ra thảm họa toàn cầu đủ lớn, khiến một tỷ lệ đáng kể dân số (ví dụ, trên 10%) thiệt mạng không?
Chúng tôi chưa xem xét khả năng này quá sâu, nhưng chính những lập luận khiến chúng tôi cho rằng biến đổi khí hậu không dẫn đến tuyệt chủng cũng cho thấy nó khó có thể gây một thảm họa lớn tới vậy. Nói ngắn gọn: Ngay cả ở các kịch bản nóng lên nghiêm trọng nhất, vẫn sẽ còn rất nhiều người có thể tồn tại và sản xuất lương thực.
Ngay cả ở 1% kịch bản tồi tệ nhất, chúng tôi đánh giá rất khó để số người tử vong sớm do biến đổi khí hậu vượt quá 1 tỷ người, và tổn thất này có lẽ sẽ diễn ra dần dần trong cả thế kỷ, chủ yếu do năng suất kinh tế suy giảm, không phải là sụp đổ đột ngột. Dẫu vậy, đây vẫn là mức độ chết chóc và đau khổ vô cùng lớn, và chúng tôi hy vọng các nhà lãnh đạo toàn cầu sẽ đảm bảo điều này không xảy ra.
Tuy nhiên, nhìn chung, các vấn đề dần dần có vẻ dễ thích nghi hơn , đồng nghĩa rủi ro nhân loại không bao giờ phục hồi sau những tác động của biến đổi khí hậu thảm khốc (dù không tới mức tuyệt chủng ngay lập tức) là rất thấp – thậm chí thấp hơn rủi ro từ một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện.
Một lần nữa, mối đe dọa gián tiếp từ biến đổi khí hậu có vẻ còn đáng ngại hơn. Ví dụ, căng thẳng quốc tế do các yếu tố liên quan đến khí hậu có thể là chất xúc tác dẫn tới những cuộc chiến tranh lớn.
Tổng kết lại, chúng tôi cho rằng xác suất một thảm họa toàn cầu dưới mức gây tuyệt diệt, nhưng làm thiệt mạng một tỷ người trở lên do biến đổi khí hậu, vẫn rất thấp.
Ngay cả khi bạn không đồng tình với quan điểm của chúng tôi về những rủi ro tồn vong (vì nghĩ chúng ta gần như chắc chắn sẽ vượt qua vài thế kỷ tới), bạn vẫn có thể băn khoăn liệu biến đổi khí hậu có tác động ra sao tới các thế hệ trong tương lai xa.
Carbon dioxide có thể lưu lại trong khí quyển hàng nghìn năm , nghĩa là hiện tượng nóng lên có thể diễn ra trong hàng trăm nghìn năm sau khi ta ngừng phát thải – và sự nóng lên này sẽ tiếp tục gây ra các tác động tiêu cực cho xã hội.
Ví dụ, nếu mực nước biển dâng 1m trong 100 năm tới, chúng ta có thể chứng kiến mức dâng 10m trong 10.000 năm tới.
Điều này đồng nghĩa, nếu nhân loại tránh được thảm họa tuyệt chủng và tiếp tục tồn tại trên Trái Đất, các thế hệ tương lai có thể vẫn sẽ phải đối mặt với hệ lụy của biến đổi khí hậu trong thời gian rất dài.
Thêm vào đó, nếu biến đổi khí hậu trở nên nghiêm trọng, điều này cũng đồng nghĩa chúng ta đã sử dụng gần như toàn bộ trữ lượng nhiên liệu hóa thạch. Đây không phải là hệ quả trực tiếp của biến đổi khí hậu, mà là hệ quả của việc không thực hiện đủ các biện pháp giảm thiểu khí thải. Ngoài việc gây ra biến đổi khí hậu và mọi hệ lụy liên quan, sự cạn kiệt nhiên liệu hóa thạch còn có nghĩa là: nếu nhân loại gặp thảm họa toàn cầu khác dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh, thì khả năng phục hồi lại sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Nguyên nhân là nhiên liệu hóa thạch là nguồn năng lượng dồi dào và dễ tiếp cận nhất. Hãy thử hình dung, nếu chúng ta phải phục hồi xã hội sau một mùa đông khi chiến tranh hạt nhân toàn cầu kết thúc, trong điều kiện đã mất phần lớn công nghệ và tri thức tích lũy suốt 100 năm qua, việc còn những nguồn nhiên liệu hóa thạch để sử dụng tạm thời sẽ cực kỳ hữu ích. Nhưng nếu chúng đã bị khai thác hết, chúng ta sẽ không còn lựa chọn nàò khác cả. (Hãy nghe podcast của chúng tôi với Luisa Rodriguez về cách chúng ta có thể phục hồi sau sự sụp đổ của nền văn minh toàn cầu để biết thêm chi tiết.)
Có rất nhiều vấn đề toàn cầu xứng đáng nhận được nhiều sự quan tâm ngày nay, không chỉ biến đổi khí hậu mà cả các rủi ro có khả năng gây tuyệt chủng cao hơn như đại dịch thảm khốc hoặc chiến tranh hạt nhân .
Nếu bạn muốn tạo ra tác động lớn nhất có thể qua sự nghiệp của mình và cho rằng việc giảm thiểu các rủi ro tồn vong là ưu tiên hàng đầu , bạn nên tập trung vào điều gì?
Ngay cả khi không phải là rủi ro tuyệt chủng, như phân tích ở trên, biến đổi khí hậu vẫn là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với hiện tại và tương lai của sự sống trên Trái Đất. Tình trạng khí hậu càng xấu đi, mức độ suy giảm đa dạng sinh học, di dời dân cư, phá hủy sinh kế và bất ổn xã hội càng cao. Đó cũng là lý do đủ thuyết phục để hành động.
Tuy nhiên, sự quan trọng chưa hẳn là lý do quyết định để lựa chọn theo đuổi nó. Khung đánh giá các vấn đề toàn cầu cho thấy bạn cũng cần cân nhắc các tiêu chí:
Biến đổi khí hậu có vẻ là vấn đề toàn cầu đặc biệt có khả năng giải quyết: chúng ta có chỉ số đo lường rõ ràng (lượng khí nhà kính thải ra), có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về hiệu quả của từng biện pháp, nhờ đó có thể định hướng hành động phù hợp.
Bên cạnh đó, cơ hội làm việc về biến đổi khí hậu còn rất rộng mở. Nhiều người dân Châu Âu và Mỹ đồng thuận rằng biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề lớn nhất thế kỷ XXI, nên bạn có thể tham gia vào lĩnh vực này tại các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp hay học viện.
Sự đồng thuận này cũng đồng nghĩa nếu bạn có thể vươn tới vị trí lãnh đạo, bạn sẽ có trong tay nhiều nguồn lực.
Do biến đổi khí hậu đang nhận được nhiều sự chú ý, những giải pháp đơn giản nhất để tạo ra khác biệt lớn có lẽ đã được tận dụng. (sẽ nói rõ hơn ở phần bên dưới).
Do biến đổi khí hậu đang nhận được nhiều sự chú ý, những giải pháp đơn giản nhất để tạo ra khác biệt lớn có lẽ đã được tận dụng. Tuy nhiên, bị vẫn còn những lĩnh vực quan trọng ít được chú ý,chẳng hạn như nghiên cứu về mối liên hệ giữa biến đổi khí hậu và các rủi ro thảm họa khác, hay đổi mới công nghệ năng lượng sạch
Công việc của bạn cũng có thể mang lại những tác động tích cực . Ví dụ, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu đốt sẽ góp phần giảm ô nhiễm không khí, nguyên nhân gây ra hàng triệu ca tử vong mỗi năm . Làm việc về biến đổi khí hậu cũng có thể thúc đẩy các giá trị tích cực như quan tâm đến thế hệ tương lai, và các cách ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu có thể trở thành hình mẫu cho nỗ lực giải quyết các mối đe dọa toàn cầu khác.
Biến đổi khí hậu nói chung nhận được nhiều sự quan tâm và tài trợ hơn đa số các vấn đề toàn cầu cấp bách khác.
Ngân sách liên bang Hoa Kỳ chi khoảng 23 tỷ đô la chi tiêu cho biến đổi khí hậu trong năm tài chính 2021. Vương quốc Anh đã chi khoảng 4 tỷ bảng Anh trong năm tài chính 2021–22 . Và hàng trăm triệu đô la được các tổ chức từ thiện chi tiêu mỗi năm. 25 Chi tiêu từ thiện cho biến đổi khí hậu là 5–10 tỷ đô la mỗi năm. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp và trường đại học trên khắp thế giới đang nghiên cứu chung về biến đổi khí hậu hoặc các công nghệ được thiết kế để giảm phát thải. SClimate Policy Initiative đã thống kê được hơn 600 tỷ USD chi tiêu liên quan đến khí hậu vào năm 2020.
Để so sánh, an ninh sinh học nói chung nhận được khoảng 3 tỷ USD mỗi năm, việc ngăn chặn các đại dịch thảm khốc nói riêng nhận được khoảng 1 tỷ đô la và giảm thiểu rủi ro từ trí tuệ nhân tạo nhận được từ 10 triệu đến 50 triệu đô la. 26
Nếu một vấn đề ít bị xem nhẹ hơn, một người bổ sung sẽ khó tạo ra được sự khác biệt tương đương khi làm việc về nó.
Một yếu tố khác là, dù biến đổi khí hậu là vấn đề nghiêm trọng, các chuyên gia nghiên cứu rủi ro tuyệt chủng thường đánh giá nguy cơ từ chiến tranh hạt nhân, xung đột giữa các cường quốc hay những tiến bộ nguy hiểm về trí tuệ nhân tạo hoặc công nghệ sinh học đều vượt trội so với biến đổi khí hậu.
Các chuyên gia nghiên cứu về nguy cơ tuyệt chủng của loài người thường cho rằng chiến tranh hạt nhân, xung đột giữa các cường quốc nói chung và một số tiến bộ nguy hiểm trong học máy hoặc công nghệ sinh học đều có khả năng gây ra sự tuyệt chủng của loài người cao hơn so với biến đổi khí hậu.
Điều này đối với chúng tôi có vẻ khá đúng.
Bạn có thể nghĩ rằng, vì những lý do đã thảo luận ở trên , biến đổi khí hậu là một yếu tố đủ lớn góp phần gây ra các rủi ro khác nên nó được xem là đáng được ưu tiên. Đó không phải là một quan điểm vô lý.
Nhưng những mối đe dọa khác, thường trực tiếp hơn đối với nhân loại này, cũng thường đóng vai trò là các yếu tố góp phần. Ví dụ, đại dịch có thể làm gia tăng căng thẳng địa chính trị, và do đó làm tăng nguy cơ xung đột. Và một vài trong số chúng, đặc biệt là các đại dịch do con người tạo ra và rủi ro từ AI không được điều chỉnh phù hợp (misaligned AI), dường như tự bản thân chúng đã là những mối đe dọa tuyệt diệt trực tiếp.
Vậy nên, nếu bạn đồng ý rằng chúng ta đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa hiện hữu trực tiếp hơn , thì để cho rằng biến đổi khí hậu quan trọng hơn, bạn cần phải nghĩ rằng biến đổi khí hậu là một yếu tố rủi ro lớn hơn nhiều so với các yếu tố khác và lớn đến mức nó vượt trội hơn sự khác biệt về rủi ro trực tiếp. Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ không phải vậy.
Dĩ nhiên, còn nhiều yếu tố khác định hướng con đường sự nghiệp của bạn; trong đó, điều thiết yếu là phải xem xét sự phù hợp cá nhân với từng lĩnh vực cụ thể. (Và chúng tôi chắc chắn đã trò chuyện với những người mà tố chất của họ từ khi sinh ra để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hơn bất kỳ thách thức nào khác). Tuy nhiên, kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy nhiều người thường đánh giá thấp năng lực bản thân, cho rằng chỉ với một chút đào tạo thì khó có thể đảm nhận những công việc xa lạ. Tương tự, họ cũng có xu hướng xem nhẹ sự đa dạng của các vị trí công việc, và do đó, không nhận ra tiềm năng tỏa sáng của mình trong những lĩnh vực khác nhau.
Vì lẽ đó, dù hoàn toàn đồng ý rằng nỗ lực giảm thiểu các mối đe dọa hiện sinh là sứ mệnh tối quan trọng, và biến đổi khí hậu đang làm gia tăng các mối đe dọa ấy, chúng tôi vẫn thường khuyến khích những ai ôm trọn hoài bão bảo vệ tương lai nhân loại nên tập trung vào các mối đe dọa hiện sinh lớn hơn và trực diện hơn, nếu được cho phép.
Nhưng bởi vì rất nhiều người sẽ cống hiến sự nghiệp của mình cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu (và trên phương diện tuyệt đối, chúng tôi hy vọng con số này sẽ còn tăng lên, ngay cả khi chúng tôi mong muốn độc giả của mình ưu tiên các rủi ro trực diện hơn), chúng tôi muốn chia sẻ đôi điều về cách thực hiện sứ mệnh đó một cách hiệu quả nhất.
Nhiều phương pháp tiếp cận phổ biến nhằm giải quyết biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường khác, trên thực tế, có lẽ không mang lại nhiều giá trị.
Lấy ví dụ, việc gia tăng diện tích đất cho canh tác hữu cơ thực chất lại có thể làm tăng lượng khí thải so với nông nghiệp truyền thống. Hay việc tiêu thụ thực phẩm sản xuất tại địa phương, một ý tưởng quen thuộc để giảm dấu chân carbon, lại kém kém quan trọng hơn rất nhiều so với việc bạn lựa chọn loại thực phẩm nào, bởi lẽ chi phí vận chuyển chỉ chiếm một phần vô cùng nhỏ trong tổng lượng phát thải của ngành thực phẩm.
Điều này cũng đúng trong địa hạt chính sách công. Các chính phủ trên toàn cầu đã nỗ lực hạn chế túi nhựa dùng một lần (để chuyển sang các giải pháp thay thế tái sử dụng), nhưng động thái này trên thực tế lại có thể đã làm tăng lượng phát thải.
Những giải pháp khác tuy có hiệu quả nhưng lại vô cùng tốn kém (với chi phí lên đến 100 đô la hoặc hơn cho mỗi tấn carbon dioxide được loại bỏ hoặc ngăn chặn). Chẳng hạn, trồng cây nghe có vẻ là một giải pháp hữu hiệu , nhưng tốc độ sinh trưởng chậm của cây, những rủi ro tiềm ẩn như cháy rừng và chi phí đất đai đắt đỏ có thể biến nó thành một phương án giảm khí nhà kính cực kỳ xa xỉ.
Chúng tôi sẽ thảo luận sâu hơn về các ý tưởng cắt giảm phát thải có tính kinh tế cao hơn ở phần sau.
Nhưng nhìn chung, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: nỗ lực giảm dấu chân carbon cá nhân phần lớn chỉ là một sự phân tâm. Để thấy rõ điều này: nếu bạn cắt giảm 50% lượng khí thải, bạn sẽ tiết kiệm được 2–10 tấn carbon dioxide mỗi năm , Trong khi đó, một khoản quyên góp chỉ 10 đô la, nếu được đầu tư một cách khôn ngoan (ví dụ như cho Quỹ Biến đổi Khí hậu Founders Pledge ) có thể mang lại hiệu quả giảm phát thải còn lớn hơn thế.
Và việc bạn thực sự dành tâm huyết và thời gian cho sứ mệnh này còn có thể tạo ra tác động lớn lao hơn nữa.
Một vài ý tưởng then chốt đã định hình nên quan điểm của chúng tôi về đâu là giải pháp hiệu quả nhất để giải quyết biến đổi khí hậu.
Thứ nhất, phát thải ở châu Âu và Bắc Mỹ đang trên đà suy giảm, 27 nhưng lại gia tăng ở các khu vực khác.
Các quốc gia đang phát triển tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người thấp hơn nhiều và cần phải tiếp tục tăng trưởng tiêu thụ năng lượng để nâng cao mức sống, một nhu cầu cấp thiết của người dân ở các nước nghèo. 28
Do đó, thách thức đặt ra là chúng ta phải giảm phát thải trên quy mô toàn cầu nhưng không được làm tổn hại đến mức sống của người dân. Điều này tạo ra những ràng buộc nhất định trong việc lựa chọn các giải pháp can thiệp ưu tiên.
Thứ hai, những giải pháp đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ luôn là bài toán khó. Điều này đúng ở cả cấp độ cá nhân và quốc gia.
Việc giảm phát thải mang lại lợi ích chung cho toàn thể cộng đồng, lớn hơn rất nhiều so với lợi ích mà bất kỳ cá nhân nào nhận được. Ví dụ, nếu Hoa Kỳ đạt mức phát thải ròng bằng không, mọi quốc gia đều hưởng lợi từ việc giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu, nhưng bản thân Hoa Kỳ chỉ nhận được một phần nhỏ trong tổng lợi ích (trong khi phải gánh chịu toàn bộ chi phí). Vì vậy, có thể lường trước rằng các cá nhân và quốc gia sẽ luôn hành động dưới mức tối ưu cần thiết cho thế giới.
Chính vì lý do này, việc tập trung vào phát triển và triển khai công nghệ mới dường như là con đường khả thi hơn cả. Nó không chỉ có ít nhược điểm và ít vướng mắc về phối hợp, mà còn không đòi hỏi phải thuyết phục các cá nhân tự nguyện hy sinh lợi ích. Thay vì yêu cầu ai đó từ bỏ điều gì, công nghệ mang đến một giải pháp tốt hơn.
Điều này có nghĩa là, công nghệ phát thải thấp hoặc không phát thải chính là một trong những đòn bẩy mạnh mẽ nhất mà chúng ta có.
Thứ ba, ngân sách dành cho khí hậu tuy khổng lồ nhưng có thể đang bỏ lỡ những mục tiêu trọng yếu.
Như đã phân tích, lĩnh vực biến đổi khí hậu dường như ít bị xem nhẹ hơn các lĩnh vực khác, với mức chi tiêu lên tới 640 tỷ đô la mỗi năm .
Điều này mở ra một cơ hội lớn: nếu bạn có thể xác định những lĩnh vực phụ quan trọng nhưng đang bị lãng quên, việc vận động để tăng cường nguồn lực hoặc điều chỉnh lại các ưu tiên hiện có sẽ tạo ra tác động vô cùng to lớn. Chỉ cần một thay đổi nhỏ về tỷ lệ cũng có thể dịch chuyển những dòng vốn khổng lồ.
Chúng tôi tin rằng một trong những hướng đi triển vọng nhất để giảm phát thải khí nhà kính là đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) năng lượng xanh.
Năng lượng xanh sở hữu một hồ sơ lợi nhuận đáng kinh ngạc, có khả năng giải quyết vấn đề trên bình diện đa quốc gia và không phụ thuộc vào việc thuyết phục người khác phải hành động. Lấy ví dụ, yêu cầu mọi người ngừng lái xe là đòi hỏi một sự hy sinh cá nhân, trong khi phát triển xe không phát thải sẽ giải quyết tận gốc vấn đề mà không cần dựa vào sự lựa chọn đó.
Năng lượng tái tạo ngày nay thường đã rẻ hơn nhiên liệu hóa thạch – đây có thể là nguyên nhân cốt lõi lý giải tại sao lượng phát thải đang giảm ở Châu Âu và Bắc Mỹ.

Giá tiền của các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và gió đã giảm xuống dưới giá tiền của nhiên liệu hóa thạch. Nguồn: Our World In Data .
Để tối đa hóa tác động, hãy tập trung vào những công nghệ tiên phong, ít được biết đến. Tại sao ư? Vì bạn có thể trở thành người châm ngòi, thúc đẩy một lĩnh vực mà nếu không có bạn, nó sẽ không thể cất cánh, hoặc phải mất một thời gian rất dài mới có thể phát triển.
Chẳng hạn, phát thải từ ô tô chỉ cao hơn khoảng bốn lần so với phát thải từ xi măng, nhưng sự tập trung của thế giới vào xe điện lại lớn hơn gấp nhiều lần con số đó. Điều này cho thấy có thể tồn tại những cơ hội tốt hơn để tạo ra bước ngoặt bằng cách "xanh hóa" ngành sản xuất xi măng. Chúng tôi tin rằng tập trung vào lĩnh vực bị xem nhẹ hơn này có thể mang lại hiệu quả vượt trội, nơi vẫn còn những giải pháp trong tầm tay mà bạn có thể nắm bắt.(hãy xem bài đánh giá nghề nghiệp kỹ sư của chúng tôi ).
Tương tự, nghiên cứu về đá khô nóng (HDR) có thể tạo ra tác động lớn hơn năng lượng mặt trời hay năng lượng gió dù chúng ta chưa thể khẳng định chắc chắn, đơn giản vì quá ít người đang đào sâu vào lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, các công nghệ giúp nâng cao hiệu suất năng lượng cũng nắm giữ giá trị to lớn, chẳng hạn như giải pháp giảm chi phí xây dựng các tòa nhà cách nhiệt hiệu quả hơn. Một điều quan trọng không kém là phải rà soát kỹ lưỡng những rào cản trong việc triển khai và nhân rộng các công nghệ hiện có, từ đó tìm ra những phương thức giảm chi phí vốn đang bị bỏ ngỏ.
Ngoài ra, bạn cũng có thể dấn thân vào con đường vận động chính sách và lãnh đạo. Dù lượng phát thải của mỗi quốc gia chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh toàn cảnh, một chính sách thành công có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa trên khắp thế giới, góp phần đáng kể vào việc giảm phát thải ròng.
Đáng tiếc thay, chúng ta lại thường xuyên ủng hộ những chính sách kém hiệu quả hoặc bất khả thi.
Trong nhiều thập kỷ, giới kinh tế học không ngừng vận động cho cơ chế định giá carbon. Về lý thuyết kinh tế thuần túy, việc áp một mức giá tương xứng với những tác động tiêu cực mà phát thải gây ra sẽ tạo nên một giải pháp tối ưu. Tuy nhiên, thực tế phũ phàng là sau hàng chục năm, giá carbon ròng toàn cầu vẫn đang ở mức âm 10,49 đô la Mỹ mỗi tấn29. nói một cách khác, chúng ta vẫn đang trợ cấp cho chính thứ mình cần loại bỏ.
Dù chưa phân tích sâu vấn đề này, chúng tôi nhận thấy dường như những rào cản chính trị kiên cố khiến việc định giá carbon trở nên vô cùng khó vượt qua.
Thay vào đó, chúng ta nên dồn lực vào các chính sách khả thi đã chứng tỏ được thành công. Một ví dụ điển hình là Vương quốc Anh, quốc gia đã gần như loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng than đá để sản xuất điện thông qua một tổ hợp các quy định và chính sách trợ cấp thực tiễn. Những quốc gia khác như Thụy Điển và Pháp cũng đã đạt được thành công vang dội trong việc triển khai năng lượng hạt nhân. Với sự vận động phù hợp, mô hình này hoàn toàn có thể được nhân rộng ở những nơi khác.
Nếu bạn quan tâm đến hoạt động vận động chính sách, bạn có thể đọc thêm các bài phân tích sâu của chúng tôi về nghề nghiệp chính sách và nghề nghiệp truyền thông nói chung.
Các công nghệ loại bỏ carbon, như công nghệ phát thải âm hay thu giữ và lưu trữ carbon, dường như đang bị xem nhẹ hơn nhiều so với năng lượng xanh, ( đọc tổng quan phổ biến ) nhưng đây lại có thể là một phương thức tối quan trọng để giảm thiểu tác động của khí thải đối với khí hậu.
Loại bỏ carbon theo cách này là một dạng địa kỹ thuật — tức can thiệp có chủ đích vào hệ thống khí hậu. Một dạng địa kỹ thuật chủ đạo khác là địa kỹ thuật năng lượng mặt trời (cố tình làm lệch hướng ánh sáng mặt trời khỏi Trái Đất để làm mát hành tinh). Tuy nhiên, bản thân địa kỹ thuật năng lượng mặt trời lại tiềm ẩn những rủi ro khôn lường cho nhân loại. Với quy mô can thiệp chưa từng có tiền lệ, một khi đã được áp dụng, công nghệ này không thể bị dừng lại đột ngột mà không gây ra những hậu quả thảm khốc. Những rủi ro này thậm chí có thể lớn hơn cả nguy cơ từ chính biến đổi khí hậu. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc thúc đẩy các nghiên cứu có thể dẫn đến ứng dụng địa kỹ thuật năng lượng mặt trời là một hành động tiềm ẩn nhiều nguy hại.
Nghiên cứu về địa kỹ thuật các loại hiện nay chủ yếu được thực hiện trong môi trường học thuật. Điển hình là Chương trình Địa kỹ thuật của Đại học Oxfordnơi đang tiến hành các nghiên cứu sâu rộng về các khía cạnh xã hội, đạo đức và kỹ thuật của lĩnh vực này.
Chúng tôi không cho rằng bản thân biến đổi khí hậu có khả năng gây ra một thảm họa tức thời làm sụp đổ xã hội hay xóa sổ một phần đáng kể dân số (>10%). Dù vậy, như đã lập luận, những tác động gián tiếp của nó hoàn toàn có thể trở thành chất xúc tác làm gia tăng các mối đe dọa hiện sinh.
Thế nhưng, như đã thấy, thật khó để xác định chính xác mức độ cộng hưởng đó là bao nhiêu và đâu là cách tốt nhất để giảm thiểu chúng. Nguyên nhân là do hầu hết các nghiên cứu hiện nay vẫn chưa tập trung vào các kịch bản rủi ro cực đoan, hay sự tương tác phức tạp giữa khí hậu và các mối đe dọa hiện sinh khác.
Do đó, việc tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu khí hậu chuyên sâu này có thể trang bị cho các nhà hoạch định chính sách và công chúng những hiểu biết xác đáng hơn về kịch bản rủi ro cực đoan của biến đổi khí hậu (cả trực tiếp và gián tiếp). Quan trọng hơn, nó còn giúp chúng ta khám phá ra những chiến lược hữu hiệu để chế ngự các rủi ro đó.
Các nghiên cứu về biến đổi khí hậu cực đoan hiện nay chủ yếu diễn ra trong giới học thuật và nhận tài trợ từ các quỹ khoa học cơ bản như Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ . Trung tâm Nghiên cứu Rủi ro Hiện sinh tại Đại học Cambridge và Viện Rủi ro Thảm họa Toàn cầu nơi đang tiên phong nghiên cứu về biến đổi khí hậu cực đoan và các phương án ứng phó.
Để hiểu rõ hơn về tính chất của công việc này, mời bạn tham khảo bài đánh giá của chúng tôi về nghiên sự nghiệp nghiên cứu học thuật.
Nếu bạn cho rằng giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu là sứ mệnh của mình và muốn thực hiện một cách hiệu quả nhất có thể, hãy tham khảo các nguồn tài nguyên từ Effective Environmentalism , nơi có thể giúp bạn kết nối với những người khác và tìm kiếm giải pháp tối ưu.